đường giới hạn khả năng sản xuất là một trong những từ khóa được search nhiều nhất trên google về chủ đề đường giới hạn khả năng sản xuất. Trong bài viết này, winerp.com.vn sẽ viết bài Đường giới hạn khả năng sản xuất là gì? Tại sao lại cần đường giới hạn khả năng sản xuất.
Đường giới hạn khả năng sản xuất là gì? Tại sao lại cần đường giới hạn khả năng sản xuất
Đường hạn chế mức độ sản xuất: Một trong những tool kinh tế dễ dàng nhất đủ nội lực minh họa rõ ràng tính khan hiếm hoi nguồn lực và sự chọn kinh tế là đường giới hạn mức độ sản xuất.
Đường hạn chế cấp độ sản xuất của một nền kinh tế là đường giới thiệu các tổ hợp sản lượng món hàng tối đa mà nó đủ sức sản xuất ra được khi dùng tất cả các nguồn lực sẵn có.
Để đơn giản hóa, chúng ta hãy tưởng tượng nền kinh tế chỉ sản xuất hai loại món hàng X và Y. Hai ngành sản xuất này dùng tất cả các thành phần sản xuất sẵn có (bao gồm cả một trình độ công nghệ nhất định) của nền kinh tế. Nếu các thành phần sản xuất được tập trung tất cả ở ngành X, nền kinh tế sẽ sản xuất ra được 100 tổ chức sản phẩm X mà k sản xuất được một tổ chức món hàng Y nào. Điều này được minh họa bằng điểm A của ảnh 1. Trong tình trạng cực đoan khác, nếu các yếu tố sản xuất được tụ hội hết ở ngành Y, giả sử 300 món hàng Y sẽ được tạo ra song không một tổ chức hàng hóa X nào được sản xuất (điểm D trên hình1). Ở những phương án trung gian hơn, nếu nguồn lực được phân bổ cho cả hai ngành nghề, nền kinh tế đủ nội lực sản xuất ra 70 tổ chức sản phẩm X và 200 đơn vị hàng hóa Y (điểm B), hoặc 60 tổ chức hàng hóa X và 220 tổ chức món hàng Y (điểm C)… Những điểm A, B, C, D (và những điểm khác, tương tự mà chúng ta k thể hiện) là những điểm không giống nhau của đường hạn chế khả năng sản xuất. Mỗi điểm đều cho chúng ta biết mức sản lượng tối đa của một loại sản phẩm mà nền kinh tế có thể sản xuất ra được trong điều kiện nó vừa mới sản xuất ra một sản lượng nhất định món hàng kia. gợi ý, nếu nền kinh tế sản xuất ra 70 đơn vị sản phẩm X, trong điều kiện nguồn lực sẵn có, nó chỉ đủ sức sản xuất tối đa 200 tổ chức món hàng Y. Nếu mong muốn sản xuất nhiều Y hơn (chẳng hạn, 220 tổ chức hàng hóa Y), nó phải sản xuất ít sản phẩm X đi (chỉ sản xuất 60 đơn vị món hàng X).
Nền kinh tế k thể sản xuất ra được một tổ hợp hàng hóa nào đó biểu thị bằng một điểm nằm bên ngoài đường hạn chế cấp độ sản xuất (chẳng hạn điểm E). Điểm E nằm ngoài năng lực sản xuất của nền kinh tế ở thời điểm mà chúng ta đã xem xét, do vậy nó được gọi là điểm không thích hợp. Nền kinh tế chỉ đủ nội lực sản xuất ở những điểm nằm trên hoặc nằm trong đường giới hạn khả năng sản xuất (được gọi là những điểm khả thi). Những điểm nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất (các điểm A, B, C, D) được coi là các điểm kết quả. Chúng biểu thị các mức sản lượng tối đa mà nền kinh tế xây dựng được từ các gốc lực khan hiếm có hiện có. Tại những điểm này, người xem không thể gia tăng sản lượng của một loại món hàng nếu k tiết kiệm sản lượng sản phẩm còn lại. Sở dĩ như vậy vì ở đây toàn bộ các gốc lực khan hiếm đều đã được sử dụng, vì thế, không có sự phung phí. ngược lại, một điểm nằm trong đường giới hạn khả năng sản xuất, giống như điểm F trên hình 1 chẳng hạn, lại biểu thị một hiện trạng không kết quả của nền kinh tế. Đó đủ sức là do nền kinh tế vừa mới trong thời kỳ suy thoái, lao động cũng giống như các nguồn lực của nó tỉ lệ hàng hóa X (x) không được sử dụng đầy đủ, sản lượng các món hàng mà nó xây dựng thấp hơn so với năng lực sản xuất hiện có. Tại trạng thái không kết quả, (ví dụ, điểm F), xét về mức độ, người ta có thể tận dụng các nguồn lực hiện có để tăng sản lượng một loại hàng hóa mà không buộc phải tiết kiệm sản lượng món hàng còn lại cũng giống như có thể song song tăng trưởng sản lượng của cả hai loại hàng hóa.
hạn chế mức độ sản xuất của xã hội bị quy định bởi tính khan hiếm hoi của các gốc lực. Trong trường hợp này, không gian phải đối mặt với sự đánh đổi và lựa chọn. Khi vừa mới đạt đến trạng thái kết quả như các điểm nằm trên đường hạn chế cấp độ sản xuất chỉ ra, nếu muốn có nhiều hàng hóa X hơn, người đọc buộc phải chấp nhận sẽ có ít sản phẩm Y hơn và trái lại. Cái giá mà ta phải trả để có thể được sử dụng nhiều món hàng X hơn chính là phải hy sinh một số lượng hàng hóa Y nhất định. Trong các trường hợp này, sự lựa chọn mà chúng ta thực hiện mãi mãi bao hàm một sự đánh đổi: để được thêm cái này, người đọc buộc phải từ bỏ hay hy sinh một cái gì khác. Sự đánh đổi giống như thế là bản chất của các quyết định kinh tế. Rốt cuộc, điểm nào trên đường giới hạn khả năng sản xuất được thế giới lựa chọn? Điều này còn tùy thuộc vào sở thích của xã hội và trong các nền kinh tế hiện đại, sự chọn này được thực hiện thông qua hoạt động của nền tảng đối tượng.
Sự đánh đổi mà chúng ta giới thiệu thông qua đường hạn chế cấp độ sản xuất cũng cho ta thấy thực chất khoản ngân sách mà chúng ta phải gánh chịu để đạt được một cái gì đó. Đó chính là ngân sách thời cơ.
chi phí thời cơ để đạt được một thứ chính là cái mà ta phải từ bỏ để có nó. Trong nền kinh tế giả định chỉ có hai phương án sản xuất các hàng hóa X,Y nói trên, chi phí thời cơ của việc sản xuất thêm một lượng hàng hóa nào đó (ví dụ sản phẩm X) chính là tỉ lệ hàng hóa khác (ở đây là sản phẩm Y) mà người xem phải hy sinh để đủ nội lực thực hiện được việc sản xuất nói trên. Nếu xuất phát chẳng hạn từ điểm C trên đường giới hạn khả năng sản xuất ở ảnh 1, ta thấy, nền kinh tế đã sản xuất ra 60 tổ chức hàng hóa X và 220 tổ chức hàng hóa Y. Chuyển từ C đến B, chúng ta nhận được thêm 10 tổ chức món hàng X, song phải từ bỏ 20 tổ chức món hàng Y.
như vậy, 20 đơn vị sản phẩm Y là chi phí thời cơ để sản xuất 10 đơn vị hàng hóa X này. Xét một phương pháp tổng quát hơn, chi phí cơ hội của việc sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa X chính là số lượng đơn vị sản phẩm Y ta phải từ bỏ để đủ sức dành nguồn lực cho việc sản xuất thêm này. Nó được đo bằng tỷ số -ΔY/ΔX, do vậy đủ sức đo bằng trị giá tuyệt đối của độ dốc của đường hạn chế khả năng sản xuất tại từng điểm. Trong một số trường hợp, vì nguyên nhân đơn giản hóa, người xem giả định rằng, chi phí cơ hội của việc sản xuất thêm một tổ chức hàng hóa nào đó là không đổi ở mọi điểm xuất phát. Khi đó đường giới hạn cấp độ sản xuất được xem như một đường thẳng (có độ dốc k đổi). Trên thực tiễn, chí phí cơ hội của việc sản xuất một loại hàng hóa thường tăng dần lên khi chúng ta cứ tăng mãi sản lượng hàng hóa này. vì vậy, đường giới hạn mức độ sản xuất thường được biểu thị như một đường cong lồi, hướng ra ngoài nguồn tọa độ.
Một đường hạn chế cấp độ sản xuất cho ta thấy các tỉ lệ hàng hóa tối đa mà không gian đủ sức có được trong một hạn chế nhất định về gốc lực. như trên ta đã nói, điểm E là điểm không khả thi, vì với lượng nguồn lực khan hiếm có hiện có, người đọc k thể tạo ra được các khối lượng hàng hóa như điểm này biểu thị. tuy nhiên, xã hội đủ nội lực sản xuất được tại điểm E nếu như nó có nhiều nguyên nhân sản xuất hơn, hoặc có được những công nghệ sản xuất tiên tiến hơn. Gắn với tình trạng mới về các gốc lực (bao hàm cả trình độ công nghệ sản xuất), nền kinh tế của xã hội lại có một đường giới hạn mức độ sản xuất mới. Khi các nguồn lực tăng trưởng (theo thời gian, thế giới tích lũy được nhiều máy móc thiết bị hơn, tìm ra được các mẹo sản xuất tiên tiến hơn v.v…), đường giới hạn khả năng sản xuất của xã hội dịch chuyển ra phía ngoài. giới hạn khả năng sản xuất được mở rộng tạo cấp độ cho thế giới đủ nội lực có thể sản xuất được nhiều hơn cả món hàng X lẫn sản phẩm Y.
tiếp tục mở rộng hạn chế khả năng sản xuất của mình theo thời gian chính là thực chất của tiến trình tăng trưởng kinh tế của thế giới (hình 2)
Quy luật hiệu suất giảm dần: ảnh dạng đường giới hạn khả năng sản xuất điển ảnh như một đường cong lồi cũng giống như giả định về chi phí cơ hội của việc sản xuất một loại hàng hóa có thiên hướng tăng trưởng dần có liên quan đến một quy luật kinh tế được gọi là quy luật hiệu suất giảm dần.
Quy luật hiệu suất giảm dần phản ánh mối quan hệ giữa lượng món hàng đầu ra và lượng đầu vào góp phần xây dựng nó. content của quy luật này là: nếu các yếu tố đầu vào khác được giữ nguyên thì việc gia tăng liên tiếp một loại đầu vào khả biến duy nhất với một tỉ lệ bằng nhau sẽ cho ta những lượng đầu ra tăng trưởng thêm có khuynh hướng ngày càng giảm dần.
có thể minh họa quy luật này bằng ví dụ sau.
Giả sử việc sản xuất lương thực cần đến hai loại đầu vào là lao động và đất đai (ở đây, đất đai đại diện cho các đầu vào khác không phải là lao động). Với một lượng đất đai cố định (ví dụ là 10 ha), sản lượng lương thực đầu ra tạo ra được sẽ tùy thuộc vào tỉ lệ lao động (yếu tố đầu vào khả biến duy nhất) được dùng. Khi chưa có một tổ chức lao động nào được sử dụng, sản lượng lương thực đầu ra là bằng 0. Với 1 đơn vị lao động canh tác trên 10 ha nói trên, giả sử trong 1 năm người này sản xuất được 15 tấn lương thực. Khi bổ sung thêm 1 đơn vị lao động nữa, 2 lao động này có thể xây dựng trong 1 năm một khối lượng lương thực là 27 tấn. Ta nói rằng lượng lương thực tăng thêm nhờ có thêm tổ chức lao động thứ hai là 12 tấn (27-15=12). vẫn với diện tích đất đai cố định giống như trên, nếu tỉ lệ lao động lần lượt là 3, 4, 5 sản lượng lương thực được xây dựng giả sử lần lượt là 37, 46, 54,5 tấn. Khi lượng lao động tăng trưởng, tổng sản lượng lương thực ngày càng được sản xuất ra nhiều hơn, song lượng lương thực tăng trưởng thêm từ mỗi tổ chức lao động bổ sung thêm lại có xu hướng giảm dần (lượng lương thực có thêm nhờ đơn vị lao động thứ ba là 10 tấn, nhờ đơn vị lao động thứ tư là 9 tấn, nhờ tổ chức lao động thứ năm là 8,5 tấn).
Quy luật hiệu suất giảm dần là một hiện tượng thường bộc lộ trong nhiều trường hợp của đời sống kinh tế. Điều cho biết cho quy luật này nằm ở chỗ các đầu vào được tăng trưởng một phương pháp k cân đối. Khi các đầu vào không giống (ví dụ, đất đai) là cố định, việc gia tăng dần đầu vào lao động cũng có nghĩa là càng về sau, mỗi đơn vị lao động càng có có ít hơn các đầu vào khác (ở đây là đất đai) để dùng. Đây là tại sao khiến cho càng về sau, mỗi tổ chức lao động gia tăng thêm lại chỉ góp phần tạo ra lượng sản phẩm đầu ra tăng trưởng thêm (trong ví dụ trên là lương thực) giảm dần. Ở ví dụ trên, với mục tiêu minh họa, chúng ta cho quy luật hiệu suất giảm dần bộc lộ hiệu lực của nó ngay khi chúng ta bổ sung tổ chức lao động đầu tiên. Trên thực tế, quy luật này chỉ thể hiện giống như là một khuynh hướng. Khi số lượng lao động được sử dụng còn ít, việc tăng trưởng thêm một đơn vị lao động đủ nội lực k chỉ làm tổng sản lượng đầu ra tăng thêm mà còn làm lượng đầu ra bổ sung cũng ngày một tăng (ở đây hiệu suất là tăng dần). Tuy nhiên, khi lượng lao động được dùng là quá đủ lớn (trong tương quan với lượng đầu vào không giống là cố định), việc cứ tiếp tục bổ sung thêm lao động dĩ nhiên sẽ giúp thiên hướng hiệu suất giảm dần phát huy hiệu lực.
Quy luật hiệu suất giảm dần là một trong những lý do đủ nội lực giải like thiên hướng chi phí thời cơ gia tăng dần khi chúng ta mong muốn sản xuất ngày một nhiều hơn một loại hàng hóa trong điều kiện bị giới hạn bởi một tổ hợp đầu vào sẵn có nhất định. Thường thì các món hàng khác nhau có các yêu cầu về đầu vào khác nhau. Mỗi lĩnh vực sản xuất đều sử dụng một số thành phần sản xuất đặc thù (ví dụ, đất đai là đầu vào quan trọng của việc sản xuất nông sản, song nó lại có ý nghĩa ít hơn nhiều trong việc sản xuất ô tô. Việc bổ sung đất đai cho ngành sản xuất ô tô bằng phương pháp rút nó ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp đủ sức sử dụng giảm nhiều sản lượng nông sản mà lại k làm tăng trưởng thêm bao nhiêu sản lượng ô tô. ngược lại, chuyển những lao động lành ngành từ lĩnh vực công nghiệp ô tô sang lĩnh vực nông nghiệp đủ nội lực làm sản lượng nông nghiệp tăng trưởng không nhiều trong khi lại có thể làm sản lượng ô tô sụt giảm mạnh). vì thế, khi mong muốn tăng thêm sản lượng của một loại hàng hóa X chẳng hạn, ở điểm kết quả trên đường giới hạn khả năng sản xuất, người xem buộc phải phân bổ lại nguồn lực bằng hướng dẫn rút chúng ra khỏi ngành nghề sản xuất hàng hóa Y. Việc bổ sung các nguồn lực cho việc sản xuất X thường k thực hiện được một phương pháp cân đối: các yếu tố sản xuất đặc thù mà ngành nghề sản xuất X đòi hỏi thường k được bổ sung một mẹo tương ứng như các yếu tố sản xuất khác. Điều này làm cho quy luật hiệu suất giảm dần đủ nội lực phát huy tác dụng. Với những lượng sản phẩm Y hy sinh bằng nhau, ta chỉ nhận được lượng hàng hóa X tăng thêm ngày một giảm dần. Nói cách khác, để đủ sức sản xuất thêm một tổ chức sản phẩm X như nhau, số lượng hàng hóa Y ta phải từ bỏ sẽ tăng dần. ngân sách cơ hội của việc sản xuất, vì vậy, thường được giả định một phương pháp chuẩn là tăng dần. (Chúng ta cũng đủ nội lực nói như vậy đối với chi phí cơ hội của việc sản xuất sản phẩm Y). (Hình 3)
Khi chi phí thời cơ của việc sản xuất một loại hàng hóa được xem là tăng dần, độ dốc của đường hạn chế khả năng sản xuất không phải là cố định mà có khuynh hướng tăng dần khi ta di chuyển từ trái sang phải. vì thế đường giới hạn mức độ sản xuất điển hình thường được giới thiệu giống như một đường cong lồi.
Nguồn: http://quantri.vn/