Qua bài viết này edaily.vn xin chia sẻ với các bạn thông tin và kiến thức về Thuật ngữ dar’sana có nghĩa gốc là gì hay nhất được tổng hợp bởi chúng tôi
Thuật ngữ dar sana có nghĩa gốc là gì? Bạn tìm kiếm thông tin về . Kỵ Sĩ Rồng tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn. Hi vọng sẽ hữu ích với bạn. Nào chúng ta bắt đầu thôi
Chức năng thế giới quan của triết học
Triết học – cốt lõi lý luận của thế giới quan
Thế giới quan là tổng thể những ý tưởng của con người về thế giới, về bản thân, về cuộc sống và vị trí của con người trên thế giới này.
Trong thế giới quan có sự hòa nhập giữa tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng nó chỉ tham gia vào thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin định hướng cho hành động của con người.
Có nhiều cách tiếp cận để nghiên cứu thế giới quan. Tuỳ theo quá trình phát triển, có thể chia thế giới quan thành ba loại cơ bản: thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
Thế giới quan thần thoại là bản chất của cách nhìn thế giới của con người. Trong thời kỳ này, các yếu tố tri thức và tình cảm, lý trí và niềm tin, thực và ảo, thực và ảo, thần thánh và con người, v.v … trộn lẫn để thể hiện quan niệm về thế giới.
Niềm tin tôn giáo có vai trò to lớn trong thế giới quan tôn giáo; Niềm tin vượt qua lý trí, cái ảo vượt qua cái thực, Thiên Chúa vượt qua con người.
Không giống như thần thoại và các học thuyết tôn giáo, triết học mô tả trí tưởng tượng của con người dưới dạng hệ thống các phạm trù và quy luật hoạt động như các khâu trong quá trình nhận thức thế giới. Với tầm quan trọng như vậy, triết học được coi là trình độ hiểu biết của bản thân trong quá trình hình thành và phát triển thế giới quan. Nếu thế giới quan được hình thành từ toàn bộ tri thức và kinh nghiệm sống của con người; trong đó tri thức của các khoa học cụ thể là cơ sở trực tiếp hình thành những quan niệm nhất định về mọi mặt và mọi bộ phận của thế giới, với cách tư duy đặc thù của mình, triết học đã tạo ra một hệ thống lý luận bao hàm những quan niệm chung nhất về thế giới như một trọn. Như vậy triết học là cốt lõi lý luận của thế giới quan;
Những vấn đề mà triết học đặt ra và nó tìm ra câu trả lời chủ yếu là những vấn đề của thế giới quan. Thế giới quan có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống con người và xã hội. Để tồn tại trên thế giới, con người dù muốn hay không cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức chính mình. Những hiểu biết này dần dần hình thành thế giới quan. Sau khi được hình thành, thế giới quan trở thành nhân tố định hướng cho quá trình tiếp tục nhận thức thế giới của con người. Thế giới quan có thể được ví như một “lăng kính” mà qua đó con người nhìn ra thế giới xung quanh và soi xét bản thân để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa trong cuộc sống và lựa chọn cách hành động và hành động nhằm đạt được mục đích đó.
Ra đời với tư cách là cốt lõi lý luận của thế giới quan, triết học cho phép thế giới quan phát triển như một quá trình tự nhận thức trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức của các ngành khoa học. Đó là chức năng tư tưởng của triết học.
Các trường phái triết học chính là biểu hiện của các thế giới quan khác nhau bị lý luận phản đối; đó là những thế giới quan triết học khác với thế giới quan thông thường. Chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Giải pháp của khía cạnh đầu tiên của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai trường phái lớn. Những người tin rằng vật chất và tự nhiên là những gì có trước và quyết định ý thức của con người được coi là những người theo chủ nghĩa duy vật; Giáo lý của họ đã hình thành nên nhiều giáo phái duy vật khác nhau. Ngược lại, những người tin rằng ý thức và tinh thần có trước tự nhiên được gọi là những người duy tâm; họ hình thành các giáo phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
– Chủ nghĩa duy vật:
Cho đến nay chủ nghĩa duy vật đã thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật giản đơn, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy vật là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời đó tuy thừa nhận bản chất nguyên thủy của vật chất nhưng đã đồng nhất vật chất với một hay nhiều chất cụ thể, và các kết luận của nó mang tính trực quan mạnh mẽ, vì vậy chúng rất ngây thơ và ngô nghê. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật cũ về cơ bản là đúng vì nó cần giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên mà không cần nhờ đến Thượng đế hay Thượng đế.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, được các nhà triết học thế kỷ XV – XVIII thể hiện rõ nét và đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ XVII – XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển phát triển rực rỡ, và trong khi quan điểm của chủ nghĩa duy vật được phát triển hơn nữa ở thời cổ đại, thì chủ nghĩa duy vật trong thời kỳ này lại chịu ảnh hưởng nặng nề của phương pháp tư tưởng: siêu hình, tư duy máy móc – phương pháp coi thế giới là khổng lồ để xem máy. mà các bộ phận của nó luôn ở trạng thái cô lập và tĩnh. Tuy không phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng đã góp phần quan trọng vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo,
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật được Mác và Ăng-ghen xây dựng từ những năm 1940 sau đó được Viên phát triển. Với sự kế thừa những tinh hoa của các giáo lý triết học trước đây và vận dụng khá triệt để những thành tựu của khoa học đương đại, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ đầu đã vượt qua giới hạn của tính hiện đại, chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao của sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực như nó đang tồn tại, mà còn là công cụ đắc lực giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội đổi mới hiện thực đó.
– chủ nghĩa duy tâm:
Chủ nghĩa duy tâm được chia thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan mặc định bản chất nguyên thủy của ý thức con người . Trong khi chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, thì lại khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp cảm giác của cá nhân và chủ thể.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận bản chất sơ khai của ý thức, nhưng theo họ, đó là tinh thần khách quan có trước con người và tồn tại độc lập với con người. Bản thể tinh thần khách quan này thường có những tên gọi khác nhau như khái niệm, tinh thần tuyệt đối, lý trí thế giới, v.v.
Chủ nghĩa duy tâm triết học cho rằng ý thức và tinh thần là những cái có trước và sinh ra giới tự nhiên; do đó, bằng cách này hay cách khác, việc tạo ra thế giới đã được thừa nhận. Vì vậy, các tôn giáo thường lấy các học thuyết duy tâm làm cơ sở lập luận, luận chứng cho quan điểm của mình. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa chủ nghĩa duy tâm triết học và chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin là nền tảng chính và giữ vai trò chủ đạo. Chủ nghĩa duy tâm triết học là sản phẩm của tư tưởng duy lý dựa trên tri thức và lý trí.
Từ quan điểm nhận thức luận, sự ngụy biện của chủ nghĩa duy tâm, một mặt, từ quan điểm phiến diện, chuyên chế và thần thánh hóa, một đặc điểm cụ thể của quá trình nhận thức biện chứng của con người.
Cùng với nguồn gốc nhận thức luận, chủ nghĩa duy tâm ra đời do nguồn gốc xã hội. Sự tách biệt của lao động trí óc với lao động thể chất và vị trí thống trị của lao động trí óc so với lao động thể chất trong các xã hội cổ đại đã tạo ra khái niệm về vai trò cốt yếu của nhân tố tinh thần. Các giai cấp thống trị và các lực lượng xã hội phản động ủng hộ và sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm cơ sở lý luận cho các quan điểm chính trị – xã hội của mình.
Một học thuyết triết học chỉ thừa nhận một trong hai thực thể (vật chất hoặc tinh thần) là nguồn gốc của thế giới được gọi là nhất nguyên (duy vật hay duy tâm).
Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học coi vật chất và tinh thần là hai mặt tồn tại độc lập cấu thành hai nguồn gốc của thế giới; Giáo lý triết học của cô là thuyết nhị nguyên. Có một triết gia khác tin rằng mọi thứ trên thế giới đều được tạo thành từ vô số yếu tố độc lập; đây là chủ nghĩa đa nguyên trong triết học (khác với chủ nghĩa đa nguyên chính trị). Nhưng đây chỉ là biểu hiện của thái độ tư tưởng chưa hoàn thiện; họ thường rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Mặc dù các quan điểm triết học được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong suốt chiều dài lịch sử, nhưng cuối cùng triết học vẫn được chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Lịch sử triết học cũng là lịch sử của cuộc đấu tranh giữa hai trường phái này.
thuyết bất khả tri
Đây là kết quả của việc giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học. Đối với câu hỏi “Con người có thể nhận thức được thế giới không?” Đa số các nhà triết học (cả nhà duy vật và duy tâm) đều trả lời khẳng định: họ thừa nhận khả năng nhận thức thế giới. Học thuyết triết học phủ nhận nhận thức của con người được gọi là thuyết bất khả tri. Theo lý thuyết này, con người không thể hiểu được đối tượng, hoặc chỉ vẻ bề ngoài của nó, bởi vì tính xác thực của hình ảnh về đối tượng mà các giác quan của con người cung cấp trong quá trình nhận thức không được đảm bảo.
Tính tương đối của nhận thức đã dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa hoài nghi từ triết học Hy Lạp cổ đại. Những người theo phong trào này nâng cao chủ nghĩa hoài nghi lên nguyên tắc tính đến kiến thức thu được và coi con người không thể đạt đến chân lý khách quan. Bất chấp những hạn chế của nó, chủ nghĩa hoài nghi thời Phục hưng đóng một vai trò quan trọng trong việc chống lại hệ tư tưởng và quyền lực của nhà thờ thời Trung cổ, vì chủ nghĩa hoài nghi công nhận sự hoài nghi về toàn bộ Kinh thánh, các vị thánh và niềm tin tôn giáo. Từ chủ nghĩa hoài nghi một số triết gia đã đi đến thuyết bất khả tri, điển hình là Kant vào thế kỷ 18.
Video Thuật ngữ dar sana có nghĩa gốc là gì
Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết Thuật ngữ dar sana có nghĩa gốc là gì! Kỵ Sĩ Rồng hi vọng đã mang đến thông tin hữu ích cho bạn. Xem thêm các bài viết cùng danh mục Hỏi đáp. Mọi ý kiến thắc mắc hãy comment bên dưới, chúng tôi sẽ phản hồi sớm nhất có thể. Nếu thấy hay hãy chia sẻ bài viết này cho nhiều người được biết. Kỵ Sĩ Rồng chúc bạn ngày vui vẻ
“