Đặt vấn đề
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để mô tả các thay đổi về xã hội, chính trị và kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân trên quy mô toàn cầu.
Trong những năm gần đây, quá trình hội nhập hàng hóa và thị trường vốn trong thương mại thế giới ngày càng tăng, việc thiết lập mạng lưới kết nối giữa các quốc gia tạo ra các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Trong đó, giữa các nước đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về việc ủng hộ hoặc chống lại vấn đề toàn cầu hóa.
Mối quan tâm về toàn cầu hóa đã tăng lên do tình hình thương mại quốc tế, nghèo đói, bất bình đẳng, khác biệt văn hóa, ảnh hưởng môi trường, an ninh… Theo cách này, các hiệu ứng toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề có nhiều quan điểm khác nhau, dẫn đến không có sự đồng thuận. Một số nhà nghiên cứu thấy rằng, toàn cầu hóa làm tăng trưởng kinh tế bằng cách đóng góp vào mở rộng ngoại thương, tăng đầu tư, tăng năng suất và sức mạnh cạnh tranh toàn cầu. Quan điểm chống lại tiến trình này thì cho rằng, toàn cầu hóa đã làm tăng bất bình đẳng thu nhập, nhu cầu về năng lượng, nguyên nhiên vật liệu sẽ gia tăng dẫn đến một số suy giảm các tiêu chuẩn môi trường và xã hội, tăng nguy cơ khủng hoảng kinh tế và ảnh hưởng đến phúc lợi của các quốc gia.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan do sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất, của phân công lao động quốc tế. Việc hội nhập kinh tế toàn cầu thể hiện sự thích ứng của nền kinh tế quốc gia với xu thế của thế giới là không thể chậm trễ. Đây là quá trình liên kết nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện tự do hoá nền kinh tế của mỗi nước trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương.
Do đó, vấn đề toàn cầu hóa kinh tế phải được thực hiện thông qua hoạt động của Nhà nước, các chủ thể kinh tế-xã hội và cả người dân. Trong đó, vai trò Nhà nước là vô cùng quan trọng để định hướng các chính sách phát triển kinh tế nhằm phân tích và đánh giá đúng đắn bối cảnh quốc tế và xu hướng tự do hóa thương mại, từ đó nhận diện các cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh thực thi các hiệp định thương mại tự do.
Đối với Việt Nam, vấn đề tham gia hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước trong việc mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong đó, sự kiện lớn nhất là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, đánh dấu sự hội nhập toàn diện của Việt Nam vào kinh tế thế giới. Với việc gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư… một cách đồng bộ, cùng với xu hướng thiết lập các khu vực thương mại tự do trên thế giới.
Tính đến năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện; có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước, có quan hệ kinh tế với 160 nước và 70 vùng lãnh thổ. Đặc biệt, WTO cùng với hơn hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia là những cánh cửa lớn, đa chiều để Việt Nam định hướng hoàn thiện khung khổ thể chế phát triển kinh tế thị trường và tự tin hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng, đầy đủ, hiệu quả hơn.
Quá trình tham gia vào nền kinh tế toàn cầu của Việt Nam đã và đang mở ra nhiều cơ hội, cũng như thách thức đối với cộng đồng doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Do đó, vấn đề phát triển kinh tế phải đảm bảo mang tính bền vững, đặc biệt là tính hiệu quả của các ngành kinh tế có lợi thế nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đi đôi với việc giảm phân hóa giàu nghèo… Xuất phát từ những vấn đề như đã nêu, chủ đề “Toàn cầu hóa kinh tế: Xu hướng và thách thức mới” cần thiết được nghiên cứu.
Xu hướng và thách thức trong vấn đề toàn cầu hóa kinh tế
Có thể khẳng định, những tác động của toàn cầu hóa đối với các quốc gia thể hiện ở việc phân phối tài nguyên. Điều này sẽ dẫn đến vấn đề giữa các nước hoặc khu vực địa lý khác nhau sẽ có lợi thế cạnh tranh kinh tế khác nhau, dẫn đến xuất hiện các vấn đề mới do mối quan hệ tác động qua lại trong thương mại quốc tế. Qua nghiên cứu, nhóm tác giả phân tích thực trạng vấn đề toàn cầu hóa ở khía cạnh kinh tế, những xu hướng và thách thức mới.
Các xu hướng mới trong vấn đề toàn cầu hóa kinh tế
Xu hướng chuyên môn hoá
Quá trình toàn cầu hóa kinh tế không những mở rộng thị trường ra nước ngoài, mà còn mở rộng thị trường trong nước do nền kinh tế có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Ý tưởng chuyên môn hóa trong thương mại quốc tế là một ý tưởng cơ bản trong kinh tế học.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển lý thuyết lợi thế tuyệt đối của nhà kinh tế học Adam Smith (1723- 1790), tác giả David Ricardo (1772-1823) của trường phái cổ điển đã nhấn mạnh, những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn hẳn các nước khác; hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối so với các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm, thì vẫn có thể và vẫn có lợi khi tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế bởi vì mỗi nước có lợi thế so sánh nhất định về sản xuất một số sản phẩm và kém lợi thế so sánh nhất định về sản xuất các sản phẩm khác. Bằng việc chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh, tổng sản lượng về sản phẩm trên thế giới sẽ tăng lên, kết quả là mỗi nước đều có lợi ích từ thương mại. Như vậy, lợi thế so sánh là cơ sở để các nước giao thương với nhau và là cơ sở để thực hiện phân công lao động quốc tế.
Thực tế sẽ diễn ra cạnh tranh gay gắt giữa hàng hóa của Việt Nam với hàng hóa các nước, điều này cho thấy, doanh nghiệp cần thiết phải lựa chọn sản phẩm có nhiều lợi thế để xuất khẩu nhằm mang lại lợi ích thương mại cao nhất. Tuy nhiên, việc lựa chọn hàng hóa nào để sản xuất và xuất khẩu thì phải dựa vào tính nghiên cứu và nhạy bén của các nhà điều hành doanh nghiệp, bên cạnh đó cần có sự hỗ trợ nhiều mặt của cơ quan nhà nước.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2021, Việt Nam vẫn tiếp tục chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19 tác động đến tình hình kinh tế nói chung. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước; trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 88,71 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng 21,1%, chiếm 73,6%. Do đó, lĩnh vực ưu tiên trong xuất khẩu phù hợp để đưa vào chuyên môn hóa phải mang tính chiến lược của một quốc gia.
Xu hướng khoa học công nghệ cao và nền kinh tế internet
Cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã tác động đến hầu hết các lĩnh vực kinh tế – chính trị – xã hội của các nước, đây là tiền đề phát triển khoa học công nghệ nói chung, làm xuất hiện nền kinh tế tri thức, tạo nên kỷ nguyên kết nối toàn cầu thông qua internet. Đồng thời, công nghệ mạng di dộng ngày càng hiện đại có vai trò rất quan trọng trong việc thu hẹp khoảng cách về địa lý, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy giao thương, nâng cao năng suất lao động… Mặt khác, sự phát triển đồng đều giữa các ngành khoa học trong tất cả các lĩnh vực cũng góp phần tạo nên triển vọng phát triển cho nhân loại.
Theo báo cáo từ Hootsuite, tính đến tháng 1/2021, số người sử dụng internet trên toàn thế giới đạt 4,66 tỷ người, tăng 316 triệu người (7,3%) so với cùng kỳ năm 2020. Hiện tại, tỷ lệ sử dụng internet toàn cầu là 59,5%. Tuy nhiên, sự bùng phát COVID-19 đã ảnh hưởng đến số lượng ngày càng tăng của người dùng internet. Vì vậy, con số thực tế có thể cao hơn. Như vậy, trong xu hướng khoa học công nghệ ngày càng phát triển và bối cảnh toàn cầu hoá. Thương mại quốc tế sẽ trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn do việc tiếp cận thông tin toàn cầu không còn là trở ngại trong một quốc gia, hoặc giữa các quốc gia khác nhau.
Xu hướng chuyển dịch lao động giữa các quốc gia
Trong điều kiện toàn cầu hóa, nền kinh tế sản xuất phát triển theo tiến trình chuyên môn hoá mang tính quốc tế, điều này làm cho thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn, sản xuất nhiều hơn dẫn đến quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, làm cho sự chuyển dịch lao động quốc tế diễn ra một cách mạnh mẽ, đặc biệt là cơ hội cho lao động các nước trong khu vực.
Mặt khác, trong bối cảnh tự do hóa thương mại, công việc của người lao động được các quốc gia tạo điều kiện trong việc đi lại nên chính sách này có thể bị lợi dụng gây ra vấn đề khó kiểm soát an ninh, khủng bố; hoặc, sự lây lan nhanh của dịch bệnh, điển hình là dịch bệnh COVID-19… Việc tự do hoá lưu thông hàng hoá, tiền tệ, thông tin và vốn ở một góc độ nào đó đã giúp cho các lực lượng khủng bố thực hiện các vụ rửa tiền, mua sắm và vận chuyển vũ khí.
Bên cạnh đó, vấn đề giảm dân số cơ học ở các nước phát triển, đồng thời tăng dân số cơ học ở các nước đang phát triển dẫn đến quá tải trong vấn đề kết cấu hạ tầng do chưa được đầu tư mở rộng kịp thời, chất lượng cuộc sống sẽ có nhiều thay đổi do khác biệt văn hóa, kinh tế…
Xu hướng phát triển bền vững
Toàn cầu hoá trong phạm vi kinh tế, thực tế đã thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu, kéo theo các dòng chảy về thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin và văn hóa. Các khía cạnh kinh tế của toàn cầu hóa dẫn đến sự phát triển của một thị trường thế giới, nơi các nhà sản xuất, các quốc gia có thể cạnh tranh, bằng cách đảm bảo dòng chảy về vốn, công nghệ… Tuy nhiên, điều này cũng chứa đựng nhiều rủi ro khó kiểm soát của các chính phủ, chẳng hạn, đối với vấn đề phát triển bền vững nền kinh tế.
Phát triển kinh tế bền vững là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia. Phát triển bền vững được thể hiện trên các lĩnh vực: kinh tế, xã hội và đặc biệt là môi trường. Trong ngôn ngữ của các nhà khoa học, một môi trường đáng sống đã trở thành một hàng hóa công cộng, tức là sẽ tạo ra nhiều giá trị khác, có ích cho cả cộng đồng quốc gia đó.
Một số thách thức mới
Hầu hết chính phủ của các quốc gia đã thấy rõ tầm quan trọng của việc phải đẩy mạnh toàn cầu hóa kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số rào cản trong cách tiếp cận xu hướng toàn cầu hóa của một số nước, điều này tạo ra thách thức to lớn đối với sự phát triển của kinh tế thế giới.
Thách thức của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, chống lại vấn đề toàn cầu hóa
Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch là thuật ngữ kinh tế học, chỉ việc áp dụng các biện pháp để bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa (hay dịch vụ) của quốc gia bằng cách đưa ra các rào cản thương mại đối với một số mặt hàng trong thương mại giữa các nước. Với chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, Chính phủ muốn bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước đối với hàng hóa cùng loại được nhập khẩu từ nước ngoài với giá thấp hơn.
Trước đây, tại Mỹ, một trong các hành động lập pháp đầu tiên của Tổng thống Donald Trump là tuyên bố rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), đàm phán lại Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), ngừng đàm phán FTA với EU, áp đặt thuế nhập khẩu cao…; Nước Anh đã rời khỏi EU- một tổ chức hợp tác khu vực lớn nhất thế giới, đang tiến hành đàm phán lại toàn bộ những quy chế thương mại với châu Âu; Trung Quốc, cường quốc kinh tế số hai thế giới vốn được xem là hưởng lợi từ thương mại tự do, đang theo đuổi một chính sách giảm nhập khẩu mạnh mẽ bằng nhiều biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước, đồng thời thúc đẩy xuất khẩu càng nhiều càng tốt. Trong khi toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành xu hướng chủ đạo của thương mại và đầu tư thì hoạt động chống toàn cầu hóa và chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch gia tăng.
Thách thức từ khủng hoảng tài chính toàn cầu với các nền kinh tế mới nổi
Những cuộc khủng hoảng tiền tệ, tài chính khó kiểm soát cho thấy, dòng vốn chảy vào và chảy ra khỏi một nước tự do không có sự điều tiết cần thiết ở cấp quốc gia cũng như quốc tế.
Theo tính toán của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), trong khoảng thời gian từ năm 1970 đến năm 2007, có đến 127 cuộc khủng hoảng. Tự do hoá thương mại và hội nhập quốc tế đã thúc đẩy quá trình tự do hoá thị trường tiền tệ và vốn và đã phát triển mạnh mẽ tới mức chưa có sự kiểm soát hữu hiệu. Trong điều kiện tự do hoá thị trường vốn hiện nay, các dòng vốn hàng tỷ USD có thể rút khỏi một nước trong một đêm, và đã dẫn tới những hậu quả khó lường. Do đó, nếu cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tiếp tục lặp lại có thể khiến dòng vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam suy giảm và Việt Nam cũng sẽ gặp nhiều khó khăn khi đưa hàng hóa ra thị trường bên ngoài.
Các quan hệ kinh tế, thương mại chưa được quản lý hiệu quả
Sự ra đời của các tổ chức quốc tế như: WTO, WB, IMF, APEC… và các nguyên tắc của các tổ chức này cũng đã được hình thành, ở góc độ nào đó cũng vẫn chưa đạt được sự công bằng. Thế giới đang thiếu một hệ thống thể chế kinh tế, một bộ máy điều hành có đủ quyền lực, hình thành một cách dân chủ. Do vậy, các quan hệ kinh tế, thương mại đang phát triển tự do chưa có sự quản lý hiệu quả. Do đó, những xung đột, tranh chấp là khó tránh khỏi.
Kết luận và hàm ý quản lý
Toàn cầu hóa là một quá trình phức tạp vượt qua biên giới của một quốc gia. Toàn cầu hóa kinh tế đã giúp gắn kết nền kinh tế và thị trường của một quốc gia với nền kinh tế thị trường thế giới và khu vực thông qua biện pháp tự do hoá, mở cửa thị trường trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Toàn cầu hóa giúp tập hợp các nền kinh tế quốc gia, cả chính trị, văn hóa, công nghệ… và các vấn đề kinh tế-xã hội và chính trị cũng làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Nhóm tác giả đề xuất một số hàm ý quản lý chủ yếu trong vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế như sau:
Về mặt nhận thức
Mặc dù, các quan điểm toàn cầu hóa vẫn còn nhiều tranh luận đối lập nhau, nhưng toàn cầu hóa kinh tế vẫn là xu hướng trên thế giới. Đây chính là thời cơ để Việt Nam có thể nghiên cứu, đánh giá và vận dụng để có những hành động cụ thể nhằm bắt kịp các nước có nền khoa học, kinh tế phát triển.
Về nghiên cứu khoa học
Trong lĩnh vực về kinh tế- chính trị quốc tế, Nhà nước cần có cơ chế chính sách tốt để tập hợp được các cơ quan và các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này, để họ có thể dành nhiều tâm huyết đóng góp kiến thức chuyên môn của mình. Vấn đề đặt ra là cần phải có cơ quan nghiên cứu “nhạc trưởng” có quyền hạn và trách nhiệm đầy đủ trong nghiên cứu kinh tế nói chung, vấn đề toàn cầu hóa kinh tế nói riêng.
Về chính sách hội nhập kinh tế
Một quốc gia có thể hưởng lợi nhiều hơn từ toàn cầu hóa kinh tế bằng cách tăng thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài, bằng cách giảm rào cản nhập khẩu và cải thiện chính sách thuế… Do đó, các nhà hoạch định chính sách cần xây dựng các chính sách để giảm tác động tiêu cực của tiến trình toàn cầu hóa theo hướng phù hợp với lợi ích chung giữa các nước với nhau.
Về thị trường quốc tế
Các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan nghiên cứu và doanh nghiệp xuất nhập khẩu… với tầm hoạt động của mình tiếp tục đàm phán, mở rộng mối quan hệ chuyên môn và mối quan hệ đối tác kinh doanh nhằm chủ động nắm bắt được nhu cầu thị trường quốc tế một cách kịp thời và phù hợp. Đặc biệt là những sản phẩm có giá trị mà Việt Nam có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp của nước ngoài.
Tài liệu tham khảo:
- Nguyễn Minh Phong, Dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam, baochinhphu.vn/dau-an-tich-cuc-tren-hanh-trinh-doi-moi-va-hoi-nhap-quoc-te-cua-viet-nam-102220110083625022.htm;
- Nguyễn Mại, Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch – vấn đề của Việt Nam, vietnamfinance.vn/chu-nghia-bao-ho-mau-dich-van-de-cua-viet-nam-20180504224208703.htm;
- David Ricardo (1817), “Principles of Political Economy and Taxation”, Irwin 1963;
- Gygli, S., Haelg, F., Sturm, J.E. (2018), The KOF Globalization Index- Revisited, KOF Working Paper, No. 439;
- Jarosław M. Nazarczuk, Stanisław Umiński, Krystyna Gawlikowska- Hueckel (2018), The Role of Specialisation in the Export Success of Polish Counties in 2004-2015, Entrepreneurial Business and Economics Review, Vol. 6, No. 2.
* PGS., TS. Bùi Văn Trịnh, Trường Đại học Cần Thơ
* ThS. Đoàn Tuấn Phong, Trường Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau, NCS. Trường Đại học Trà Vinh
** Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 6/2022