Hình thái kinh tế xã hội là nội dung bắt nguồn từ học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của do Mác – Ăngghen phát hiện ra vào những năm 40 của thế kỷ 19, được V.I.Lênin kế thừa và phát triển, vận dụng lý luận này vào Cách mạng Tháng 10 Nga. Hình thái kinh tế xã hội là sự vận động và phát triển của xã hội như một quá trình lịch sử – tự nhiên, để cho ra đời các loại hình thái này đến hình thái khác với những tiến bộ hơn hẳn các hình thái trước đó. Tìm hiểu về hình thái kinh tế xã hội là tìm hiểu về sự vận hành của xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử nói chung của xã hội loài người.
Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568
1. Hình thái kinh tế xã hội là gì?
Xã hội là tổng thể của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp. Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng vào phân tích đời sống xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê – nin đã đưa ra khái niệm hình thái kinh tế – xã hội.
Theo Mác Lê – nin, hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dung để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Như vậy, kết cấu của hình thái kinh tế – xã hội theo khái niệm trên bao gồm: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên và năng lực thực tiễn của con người. Lực lượng sản xuất làm ra tư liệu sản xuất cho xã hội, từ lực lượng sản xuất này sẽ nảy sinh quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Từ lực lượng sản xuất sẽ hình thành nên một tổng thể đó là kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định và đều có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng nhưng không tồn tại tác rời nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng.
Với khái niệm khoa học về xã hội theo cấu trúc “hình thái” như vậy đã đem lại phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu cấu trúc cơ bản của xã hội, cho phép phân tích đời sống hết sực phức tạp của xã hội để chỉ ra các mối quan hệ biện chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó, chỉ ra quy luật vận động và phát triển của nó như một quá trình lịch sử – tự nhiên. Tổng thể hình thái kinh tế xã hội bao gồm nhiều mặt, mỗi mặt lại có những thế mạnh riêng lẻ và phải dựa vào những thế mạnh đó để nghiên cứu, tìm tòi và phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Hình thái kinh tế xã hội trong Tiếng anh là “Socioeconomic form“.
2. Năm hình thái kinh tế xã hội:
Xã hội loài người đã biết đến năm hình thái kinh tế – xã hội tương ứng với năm phương thức sản xuất: hình thái kinh tế – xã hội cộng đồng nguyên thủy, hình thái kinh tế – xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế – xã hội phong kiến, hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
– Hình thái kinh tế – xã hội cộng đồng nguyên thủy là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên và sơ khai nhất trong lịch sử loài người. Một số đặc trưng nổi bật của hình thái này là: Tư liệu lao động thô sơ, chủ yếu sử dụng đồ đá, thân cây làm công cụ lao động; Cơ sở kinh tế là sự sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động; Là xã hội chưa có giai cấp, Nhà nước và pháp luật; Quan hệ sản xuất là quan hệ bình đẳng, cùng làm cùng hưởng thụ.
– Hình thái kinh tế – xã hội chiếm hữu nô lệ: Khi chế độ thị tộc tồn tại trong công xã nguyên thủy tan rã và hình thành nên xã hội có Nhà nước, và cuộc cách mạng xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người đã hình thành nên hình thái KTXH chiếm hữu nô lệ. Đặc trưng của hình thái này là đã thay thế chế độ công hữu (sở hữu chung) về từ liệu sản xuất sang chế độ tư hữu chủ nô, thay thế xã hội không có giai cấp thành xã hội có giai cấp đối kháng (chủ nô – nô lệ), thay thế chế độ tự quản thị tộc bằng trật tự có nhà nước của giai cấp chủ nô. Giai cấp chủ nô dùng bộ máy cai trị của mình bóc lột tàn nhẫn sức lao động của nô lệ, nô lệ trong xã hội này được coi như một công cụ lao động biết nói. Hình thái này cũng tạo ra kiểu nhà nước đầu tiên: Nhà nước chủ nô.
– Hình thái kinh tế – xã hội phong kiến: Giai cấp thống trị mới trong hình thái này là giai cấp quý tộc – địa chủ, giai cấp bị trị là nông nô. Phương pháp bóc lột sức lao động trong xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng hình thức bóc lột địa tô – người nông dân được giao đất đai và canh tác trên thửa ruộng của mình, đến kỳ hạn nộp tô thuế cho địa chủ. So với hình thái chiếm hữu nô lệ, hình thức lao động trong thời kỳ phong kiến đã tiến bộ hơn nhiều, tuy phải nộp tô thuế nhưng nông dân vẫn có thể được giữ lại phải của cải dư thừa của mình. Đồng thời nhiều tầng lớp, giai cấp mới đã xuất hiện trong xã hội.
– Hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa:
Xuất hiện đầu tiên ở châu Âu, phôi thai và phát triển trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức xác lập như một hình thái KTXH đầu tiên ở Anh và Hà Lan vào thế kỷ 17. Adam Smith (1723-1790) là người có đóng góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do kinh tế. Những nét đặc trưng cơ bản của hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa: Quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo vệ và coi như quyền thiêng liêng của con người; Cá nhân dùng sở hữu tư nhân để kinh doanh trong điều kiện thị trường tự do: mọi sự phân chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế; Gắn với nền sản xuất công nghiệp có năng suất lao động cao; Bản chất sự “bóc lột” nằm ở giá trị thặng dư mà sức lao động tạo ra khi các nhà tư bản thuê lao động và sử dụng sức lao động.
– Hình thái kinh tế xã hội công sản chủ nghĩa.
Dựa trên sự phân tích trực tiếp những mâu thuẫn cơ bản của Chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đầu, đặc biệt là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, dựa vào triển vọng của phong trài công nhân, Mác và Ăng – ghen đã đưa ra dự đoán về sự phát triển của xã hội loài người trong tương lai, đó là sự tất yếu của việc tiến tới hình thái kinh tế – xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội. Mác và Ăng – ghen cũng đã từng lưu ý về xây dựng Chủ nghĩa cộng sản “Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi Chủ nghĩa cộng ản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ mọi trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại”.
Những lý luận của Mác, Ăng – ghen và đặc biết là Lê – nin đã giúp Đảng và nhân dân ta có những bước đi thành công mặc dù cũng còn tồn tại không ít hạn chế trong nhận thức vận dụng quy luật này. Một trong những tồn tại lớn nhất đó là việc chúng ta chưa nhận thức quy luật nay một cách đúng đắn mà chủ quan, duy ý chí thời kì những năm trước 1986. Trước năm 1986, ở Việt Nam có hai hình thức sở hữu: sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước trong khi đó quan hệ quản lý là hành chính – quan liêu kiểu bao cấp, quan hệ phân phối là binh quân dẫn tới quan hệ sản xuất lỗi thời không phù hợp, kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Tóm lại, đó là những sai lầm thuộc về chủ quan, duy ý chí. Thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại Chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới một cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn của Chủ nghĩa xã hội.
Mỗi một hình thái kinh tế – xã hội đều tồn tại trong một gia đoạn lịch sử nhất định, phản ánh một chế độ lịch sử nhất định. Con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa…Vì vật, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức phong phú, đa dạng. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hoặc một số nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử – tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.