Ý nghĩa chữ hiếu
TK. Minh Điệp
1. Khái niệm
Theo Phật Quang Đại Từ Điển quyển 2, trang 2137: Hiếu có nghĩa là hết lòng thành kính và phụng dưỡng cha mẹ. Những ai siêng năng tu tập hiếu dưỡng cha mẹ thì phước báu bằng với phước cúng dường chư Phật. Nếu cung cấp tứ vật dụng cho cha mẹ thì là hiếu thế gian, còn đem Phật pháp hướng dẫn cha mẹ là hiếu xuất thế gian.
Hiếu gồm 4 phương diện:
a. Hiếu dưỡng:
Nghĩa là cung kính dưỡng nuôi, không để cha mẹ thiếu thốn một món gì từ thức ăn, vật uống, chỗ ở cho đến thuốc thang khi già yếu. Nếu Phật tử biết cúng dường Tam Bảo và hiện tiền Tăng về tứ vật dụng, ủng hộ chư Tăng xuất gia hành đạo thì cũng phải biết cúng dường tứ vật dụng đến cha mẹ mình.
b. Hiếu tâm
Báo hiếu cho cha mẹ là trách nhiệm và bổn phận của người con. Tuy nhiên, không ít trường hợp người con báo hiếu cha mẹ không thật lòng. Cho nên, báo hiếu phải xuất phát từ tấm lòng yêu kính cha mẹ, một lòng mong muốn cha mẹ được an vui, hạnh phúc bằng sự báo hiếu của mình gọi là hiếu tâm.
c. Hiếu hạnh
Nghĩa là báo hiếu như một nếp sống đạo đức cần thực hành và truyền thừa lại cho con cháu. Thường có câu rằng: Hiếu hạnh vi Phật hạnh, nghĩa là báo hiếu là việc làm của người giác ngộ. Vì vậy, những người có trí tuệ và đạo đức phải xem việc báo hiếu là một lẽ sống của đời mình.
d. Hiếu đạo
Mang nghĩa rằng báo hiếu là một đạo lý làm người.
Cổ đức dạy rằng: Mộc bổn thủy nguyên.
Tạm dịch:
Cây có cội mới trổ cành sanh ngọn
Nước có nguồn mới bủa khắp rạch sông.
Con người ở đời nhờ ơn cha mẹ mà lớn lên, cho nên đạo lý sống là phải biết đền trả ơn đức sinh thành đó. Đây là đạo lý nền tảng cho mọi hành vi đạo đức ở đời.
2. Báo hiếu theo lẽ tự nhiên
Đúng theo lẽ tự nhiên, một người con luôn luôn phải biết cảm nhận và báo đáp công ơn sanh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Việc báo hiếu đó phải thực hiện trên hai phương diện là vật chất và tinh thần.
a. Báo hiếu phương diện vật chất
Những điều cần thiết mà người con cần phải phụng dưỡng cha mẹ là thức ăn, đồ mặc, chỗ ở và thuốc trị bệnh. Đây là những vấn đề căn bản cho sự sống. Đặc biệt khi cha mẹ già yếu không còn khả năng lao động thì những vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào sự dưỡng nuôi của con cái. Thế nhưng, có một điều cần chú ý là của cải vật chất mà chúng ta làm ra phụng dưỡng cha mẹ phải được tạo sắm bằng phương pháp lành. Vì nếu của cải đó được tạo bằng ác nghiệp thì chúng ta phải chịu quả báo rất khốc liệt, bởi luật nhân quả nào có chấp nhận sự biện minh cho những người con làm ác để nuôi cha mẹ bao giờ.
Kinh Trung Bộ tập 2, trang 188 có dạy rằng: “Người con vì cha mẹ mà làm các điều phi pháp, tội lỗi, bất chánh để báo hiếu cho cha mẹ, người ấy sẽ bị quỷ sứ kéo vào địa ngục. Trước mặt Diêm Vương người ấy không thể nói rằng: “Vì con phải lo cho cha mẹ cho nên phải phạm những điều tội lỗi này”. Diêm Vương, quỷ sứ không tha tội mà quăng nó vào địa ngục dù nó có khóc than, dù cha mẹ có van xin kể lể”.
b. Báo hiếu phương diện tinh thần
Theo đạo Phật, báo hiếu về phương diện tinh thần không chỉ đơn thuần là làm cho cha mẹ luôn được vui vẻ, hạnh phúc, mà báo hiếu tinh thần ở đây là hướng cha mẹ bước theo con đường cải ác tùng thiện, biết làm việc phước đức, và hơn hết là biết tu tập để tìm đến sự an lạc thật sự trong chính đời này và đời sau.
Báo hiếu về phương diện tinh thần chúng ta nên chú ý ở một vài điểm sau:
– Khi cha mẹ còn khỏe mạnh: chúng ta nên vâng lời dạy bảo, nghe lời khuyên răn và làm cha mẹ vui lòng.
– Khi cha mẹ già yếu: anh em phải hòa thuận, chăm nom săn sóc thường ngày, tránh gây gổ, mất đoàn kết, nhất là trong việc phân chia tài sản. Khuyên cha mẹ ăn chay niệm Phật, nghe giáo lý và quy y Tam Bảo.
– Khi cha mẹ mất: tụng kinh cầu siêu, làm các việc phước lành để hồi hướng cho cha mẹ.
3. Báo hiếu cao thượng
a. Theo quan điểm các kinh Đại thừa
Phật giáo Đại thừa đề cao trí tuệ và dùng nhiều phương tiện thiện xảo để diễn bày giáo lý Phật-đà. Tinh thần hiếu đạo được thể hiện rõ trong các kinh: Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, Kinh Địa Tạng,… nhưng phổ biến nhất là Kinh Vu Lan và Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Trọng Ân.
Tư tưởng báo hiếu chủ đạo trong các kinh này đều theo một khuynh hướng là xuất gia tu hành giải thoát để cứu độ cha mẹ. Tinh thần này sáng ngời qua hình ảnh tôn giả Mục Kiền Liên. Ngài xuất gia làm đệ tử Đức Phật, tu tập chứng đắc đạo quả A-la-hán có lục thông. Nhờ vận dụng thần thông, Ngài biết sự thọ khổ của mẹ. Nhờ Đức Phật dạy bảo, Ngài cung thỉnh chư Tăng mười phương cúng dường trai tăng chú nguyện cho mẹ. Bà Thanh Đề nhờ năng lực chú nguyện của Thánh Tăng mà chuyển hóa tâm niệm xấu ác, liền được giải thoát.
Nhưng cao thượng nhất về tấm gương hiếu thảo đó chính là Đức Phật Thích Ca. Khi trở thành đấng Toàn Giác, Ngài đã trở về quê nhà độ cha mẹ. Khi ấy hoàng hậu Ma Da đang ở cõi trời Đao Lợi, Ngài dùng thần thông lên trời thuyết pháp cho mẹ hiểu đạo. Ngài hướng dẫn vua cha quy y Tam Bảo và chứng Thánh quả vào lúc cuối đời. Kinh sách viết rằng, Đức Phật đã tự mình tẩm liệm và khiêng quan tài của vua Tịnh Phạn làm lễ trà tì. Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Trọng Ân diễn tả một việc hy hữu là Đức Phật đã rơi lệ và đảnh lễ đống xương trắng vì nhớ đến thân quyến từ ngàn xưa. Trong một lần khất thực hoá duyên Ngài đã để một lão bà hôn vì lão bà nhớ đến con khi thấy hình dáng Đức Phật. Thế nên, có thơ tán thán sự hiếu thảo của Ngài rằng:
Phật xưa hiếu thảo kể hà sa
Đến kiếp hiện nay cũng đậm đà
Đao Lợi thiên cung về viếng Mẹ
Ca Tỳ La Vệ đến tìm Cha
Khom lưng đảnh lễ đồi xương trắng
Đưa mặt cho hôn một mẫu già
Đến thác kim quan còn bật nắp
Soi cùng hiếu tử mấy người qua.
Từ hình ảnh của Đấng Giác Ngộ và các vị Thánh Tăng đã xuất hiện câu truyền tụng dân gian rằng: Nhất nhơn thành đạo cửu huyền thăng, nghĩa là một người thành đạo quả, chín đời thân quyến được siêu thoát. Tư tưởng này có tác dụng thúc đẩy sự tinh tấn tu hành của những bậc xuất gia. Vì người xuất gia ngoài mục đích hướng về giải thoát còn hướng đến việc hóa độ quần sanh, đền trả bốn ân cao thượng. Trong đó, báo ơn cha mẹ được đặt lên hàng đầu.
b. Theo quan điểm kinh văn Nguyên thuỷ
Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, Đức Phật dạy: “Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với các của cải, vật chất, tiền bạc thời không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỳ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích, hướng dẫn an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn an trú vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỳ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha”.
Kinh Trung A Hàm, Hán dịch: Phật Ðà Da Xá và Trúc Phật Niệm, Việt dịch và hiệu chú: Thích Tuệ Sỹ, có đoạn chép rằng:
Phật dạy A Nan khi A Nan xin cho Cù-đàm-di Đại Ái xuất gia:
“A-nan! Cù-đàm-di Đại Ái đã đem lại cho ta nhiều lợi ích, đã bảo dưỡng ta sau khi thân mẫu ta mất. Nhưng này A-nan, ta cũng đem lại cho Cù-đàm-di Đại Ái nhiều lợi ích. Vì sao? Này A-nan, Cù-đàm-di Đại Ái nhờ ta mà được quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tỳ-kheo, không nghi ngờ ba ngôi tôn quý và Khổ – Tập – Diệt – Đạo, thành tựu tín tâm, phụng trì giới cấm, tu học bác văn, thành tựu hạnh bố thí, được trí tuệ, xa lìa nghiệp sát, đoạn trừ nghiệp sát; xa lìa nghiệp không cho mà lấy, đoạn trừ nghiệp không cho mà lấy; xa lìa nghiệp tà dâm, đoạn trừ nghiệp tà dâm; xa lìa nghiệp nói dối, đoạn trừ nghiệp nói dối; xa lìa nghiệp uống rượu, đoạn trừ nghiệp uống rượu.
A-nan, nếu có người nhờ người mà được quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tỳ-kheo, không nghi ngờ ba ngôi tôn quý và Khổ -Tập – Diệt – Đạo, thành tựu tín tâm, phụng trì giới cấm, tu học bác văn, thành tựu bố thí, được trí tuệ, xa lìa nghiệp sát, đoạn trừ nghiệp sát; xa lìa nghiệp không cho mà lấy, đoạn trừ nghiệp không cho mà lấy; xa lìa nghiệp tà dâm, đoạn trừ nghiệp tà dâm; xa lìa nghiệp nói dối, đoạn trừ nghiệp nói dối; xa lìa nghiệp uống rượu, đoạn trừ nghiệp uống rượu. Rồi, này A-nan, giả như người này cúng dường người kia y phục, ăn uống, tọa cụ, thuốc thang, các vật dụng cho cuộc sống, cho đến trọn đời, chẳng lẽ nào lại không được đền ơn”.
Qua hai đoạn trích từ Kinh Trung Bộ và Kinh Trung A Hàm, chúng ta thấy rằng quan điểm báo hiếu của các kinh này mang sự tích cực bằng cách hướng dẫn cho cha mẹ tu tập hơn là việc chờ đợi người con giải thoát rồi cứu độ cha mẹ. Rõ ràng lời Phật dạy trong 2 kinh này là nếu ai hướng dẫn cho cha mẹ quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới, tu tập Bát Chánh Đạo là đã đền trả được công ơn cha mẹ.
Cả hai quan điểm trong kinh thuộc Bắc truyền và Nam truyền đều có mặt tích cực trong việc báo hiếu mang tính xuất thế gian. Tùy theo căn cơ và khả năng tu tập mà ta có thể báo hiếu cho cha mẹ theo tinh thần cao thượng này. Báo hiếu vật chất tuy có thể chăm sóc cha mẹ lúc hiện tiền nhưng không thể giúp cha mẹ đoạn tận đau khổ trong ngày vị lai. Chỉ có hướng dẫn cha mẹ vào đạo và tu tập thì mới có thể giúp cha mẹ đạt được chân hạnh phúc. Những ai có tâm muốn báo hiếu cho cha mẹ nên dùng pháp xuất thế gian mới đáp đền trọn vẹn công ơn cha mẹ vậy.
Tóm lại, con người sinh ra trên cuộc đời này dù ở địa vị giàu sang hay nghèo khó, dù đẹp đẽ hay xấu xí, dù thông minh hay ngu dốt… tất cả đều nhờ vào công đức sanh thành và dưỡng dục của cha, của mẹ. Do đó, bổn phận làm con phải biết nhớ tưởng và báo đáp công ơn trong muôn một. Chúng ta nên biết rằng, nền tảng đạo đức của con người được xây dựng trên lòng biết ơn và hành động trả ơn. Trong đó, ơn đức của cha mẹ là sâu nặng nhất. Nếu chúng ta vô tâm không nhớ tưởng và không có hành động báo hiếu thì chúng ta không thể nào trọn vẹn đạo đức làm người. Mỗi độ Vu Lan, hãy thành tâm hướng về hai đấng sanh thành để thể hiện lòng yêu kính cha mẹ và làm các việc báo đáp công ơn thiết thực nhất.
-oOo-
Nguồn: Đạo Phật Khất Sĩ