Trong triết học và tâm lý học, biểu tượng là khái niệm chỉ một giai đoạn, một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác dộng của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt.
Đang xem: Biểu tượng là gì
Biểu tượng như là thuật ngữ của mĩ học, lí luận văn học và ngôn ngữ học còn được gọi là tượng trưng, nó có nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Văn học phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật. Đặc điểm cơ bản của hình tượng nghệ thuật là sự tái hiện thế giới, làm cho con người và cuộc sống hiện lên y như thật. Nhưng hình tượng cũng là hiện tượng đầy tính ước lệ. Bằng hình tượng, nghệ thuật sáng tạo ra một thế giới hoàn toàn mang tính biểu tượng. Cho nên, trong nghĩa rộng, biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của văn học nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tượng là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lí sâu xa về con người và cuộc đời, như hình tượng “Đạm Tiên” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, hình tượng “cây sồi” trong Chiến tranh và hòa bình của L. Tôn-xtôi, hay hình tượng “bò khoang” trong Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu. Loại biểu tượng là hình tượng nghệ thuật thể hiện tập trung nguyên tắc phản ánh hiện thực trong tính quan niệm, thông qua các mô hình đời sông của văn học nghệ thuật.
Xem thêm: Kỷ Yếu Là Gì – ý Nghĩa Của Kỷ Yếu
Là một phương thức chuyển nghĩa của lời nói, biểu tượng có quan hệ gần gũi với ẩn dụ, hoán dụ. Giống với hoán dụ, ẩn dụ, biểu tượng được hình thành trên cơ sở đối chiếu, so sánh các hiện tượng, đối tượng có những phương diện, khía cạnh, những đặc điểm gần gũi, tương đồng, nhằm làm nổi bật bản chất, tạo ra một ý niệm cụ thể, sáng tỏ về hiện tượng hay đối tượng đó. Các biểu tượng như “mùa xuân” (sức sống và tuổi trẻ), “cây liễu”, “cành liễu” (vẻ đẹp yểu điệu của người con gái), “thuyền” và “bến”, “hoa” và “bướm” (người con trai và người con gái) là những hình thức chuyển nghĩa được hình thành trên cơ sở như thế.
Xem thêm: Vốn Chủ Sở Hữu Là Gì, Gợi ý Cách Tính Vốn Chủ Sở Hữu
Tuy nhiên, giữa ẩn dụ, hoán dụ và biểu tượng vẫn có sự khác nhau về cơ bản. Thứ nhất, ẩn dụ và hoán dụ (nhất là những hoán dụ và ẩn dụ được dùng quen thuộc đến mức hễ nói đến vật đó là tự ta có thể suy ra chính xác điều được nói đến) đều mang ít hay nhiều ý nghĩa biểu tượng, nhưng biểu tượng không phải bao giờ cũng là những hoán dụ, ẩn dụ. Chẳng hạn, từ “mùa xuân” (tuổi trẻ và sức sống), “màu đỏ” (đấu tranh), “màu xanh” (hòa bình), “màu trắng” (tinh khiết), “màu tím” (thủy chung) dẫu không được sử dụng như một ẩn dụ, thì chúng vẫn có thể là những biểu tượng.Thứ hai, biểu tượng không loại bỏ ý nghĩa cụ thể, cảm tính của vật tượng trưng hoặc của hình tượng nghệ thuật. Trong khi đó, ẩn dụ và hoán dụ nhiều khi có khuynh hướng làm mờ ý nghĩa biểu vật, trực quan của lời nói. Chẳng hạn, chúng ta không thể tìm thấy ý nghĩa biểu vật của ẩn dụ “con tàu” trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên. Trong thơ lãng mạn và thơ tượng trưng, do tất cả các loại ẩn dụ, nhất là loại ẩn dụ làm chuyển đổi cảm giác được sử dụng với mật độ dày đặc, nên ta càng khó nhận ra ý nghĩa biểu vật của hệ thống lời thơ. Thứ ba, do một ẩn dụ có thể dùng cho nhiều đối tượng khác nhau và một đối tượng cũng có thể diễn đạt bằng nhiều ẩn dụ, hoán dụ khác nhau (thuyền – bến, thuyền – biển, biển – bờ, mận – đào, núi Mường Hung – dòng sông Mã,…) nên người đọc phải tìm hiểu ý nghĩa của chúng trong ngữ cảnh cụ thể của từng văn bản. Khác với ẩn dụ, ý nghĩa của biểu tượng tồn tại cả ở ngoài văn bản mà chúng ta đang tiếp xúc. Bởi vì, quá trình tạo nghĩa của mỗi biểu tượng thường có lịch sử lâu đời hàng vạn năm, gắn liền với quá trình hình thành quan niệm về thế giới của con người cổ xưa. Từ thời tiền sử, có lẽ, cùng với sự xuất hiện của tiếng nói, các từ như trời, đất, sáng, tối, xuân, hạ, máu, lửa, sấm, chớp, cầu vồng,… đã ăn sâu vào trí não của nhân loại như những biểu tượng. Cho nên, thần thoại, truyền thuyết, ca dao, truyện cổ tích, văn học trung đại là những cái kho biểu tượng khổng lồ. Truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ sáng tạo ra biểu tượng “Rồng”, “Tiên”. Ca dao Việt Nam cũng sáng tạo ra những biểu tượng tuyệt vời như “con cò”, “con rùa”. Biểu tượng “con cò” gợi ra hình ảnh người nông dân một sương hai nắng, lặn lội trên đồng ruộng, dưới nắng mưa suốt tháng, quanh năm. “Con rùa” là biểu tượng của tính cách nhẫn nhục và thân phận của con người bị áp bức. Trong văn học trung đại phương Đông “tùng”, “cúc”, “trúc”, “mai” là những biểu tượng thể hiện khí phách của bậc chính nhân quân tử. “Quan san”, “biên tái” tượng trưng cho sự xa cách nghìn trùng, “làn thu thủy”, “khóe thu ba” là con mắt người đẹp, “bến đò”, “dòng sông”, “dặm liễu”, “đường hòe” là nơi phân lìa, chia li, “chuông chùa” giữa buổi chiều muộn hay cảnh khuya gợi ra nỗi buồn hoang vắng, cô tịch,… Không hiểu được những biểu tượng có tính chất truyền thống ấy, ta không hiểu được chiều sâu của thơ ca nghệ thuật.
Trong lịch sử tồn tại lâu dài, ý nghĩa của biểu tượng không ngừng được bổ sung. Chẳng hạn, hình tượng cây tùng trong bài Tùng của Nguyễn Trãi có những nét nghĩa mà ta không thể tìm thấy trong văn thơ trung đại. Nếu cây tùng của Nguyễn Trãi có nét nghĩa đồng nhất cây tùng với người quân tử, thì cây thông của Nguyễn Công Trứ lại thể hiện thái độ đối lập cây tùng với con người, ngụ ý siêu thoát :