Câu hỏi: Phân tích ý nghĩa nghệ thuật của chuyến tàu đêm
Câu trả lời:
Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con tàu:
– Biểu tượng của một thế giới đáng sống: giàu sang rực rỡ, nó đối lập với cuộc sống mệt mỏi, nghèo nàn, tăm tối của người dân phố huyện.
– Hình ảnh về Hà Nội, về hạnh phúc, về những kỉ niệm tuổi thơ ngọt ngào.
– Là khát vọng vươn tới ánh sáng, vượt qua cuộc sống tù túng, quẩn quanh, không cam chịu cuộc sống tầm thường, nhạt nhẽo bủa vây. Hình ảnh chuyến tàu đêm là niềm hy vọng về một tương lai tươi sáng, nơi con người có thể tỏa sáng những khoảnh khắc hạnh phúc, ước mơ về cuộc sống tươi sáng hơn.
– Ánh sáng của chuyến tàu khiến con người ta thức tỉnh trước những thực tại của cuộc sống, hình ảnh chuyến tàu đêm là tia sáng và hy vọng cho mọi người dân nghèo nơi phố huyện này. Dù chỉ là số tiền nhỏ nhưng đó cũng là niềm tin giúp người nông dân ở đó hướng tới một tương lai tươi sáng hơn, đời sống của người dân được cải thiện nhiều hơn.
Ngoài ra, các bạn cùng trường ĐH KD & CN Hà Nội có thể tham khảo thêm một số kiến thức bổ ích khác nhé!
1. Hoàn Cảnh Sáng Tác Hai Đứa Trẻ
Hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn: Thế này: Anh sinh ra ở huyện Cẩm Giàng, Hải Dương, tính tình điềm đạm, nhạy cảm trước những vấn đề của cuộc sống, anh luôn trăn trở, thương cảm cho những số phận nghèo khó, khó khăn của nhân dân lao động. Trong thời gian sống ở đây, anh thấu hiểu cuộc sống của những người dân lao động nghèo khổ, cơ cực.
Đó là nguyên nhân dẫn đến việc ra đời tác phẩm “Hai đứa trẻ”, nhằm nói lên khát vọng về một cuộc sống tươi sáng, con người không phải chịu những khổ cực của cuộc đời.
Nhạy cảm trước những vấn đề của cuộc sống, cảm thương trước những hoàn cảnh khó khăn, ông đã sáng tác tác phẩm “Hai đứa trẻ”, bằng những cảm xúc tinh tế, nhạy cảm, rung động, ông đã sáng tác “Hai đứa trẻ” bằng sự nhạy cảm, nhạy bén của mình trước hoàn cảnh hiện tại.
2. Phân tích Hai đứa trẻ
Đã hai mươi năm trôi qua, độc giả vẫn chưa quên một bóng dáng khiêm tốn, chậm rãi, rất nhân hậu, bước những bước rất nhẹ vào làng văn học Việt Nam hiện đại, mang theo những trang thơ đầy tâm huyết. Như Nguyễn Tuân đã nói “Sáng tác của Thạch Lam mang một chút gì đó nhẹ nhàng, thơm mát”. Ta bắt gặp những cung bậc cảm xúc ấy không chỉ trong “Dưới bóng ngọc lan”, “Gió lạnh đầu mùa” hay “Cô bé trồng trọt”, “Hai đứa trẻ” một lần nữa dẫn dắt ta vào thế giới của trẻ thơ với bao cảm xúc. mềm, buồn.
Đến với “Hai đứa trẻ”, chúng ta lần đầu được hòa mình vào bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người nơi phố huyện qua ánh mắt tinh tường của cô bé Liên – nhân vật chính trong truyện. Bức tranh thiên nhiên được gói gọn trong hai từ “mượt mà” và “buồn”. Ở đó có tiếng trống không đánh từng hồi, tiếng ếch nhái kêu gợi sự tĩnh lặng của vùng quê, tiếng muỗi vo ve tô đậm vẽ lên cảnh nghèo đói. Không gian được mở ra bởi màu “đỏ rực” của trời Tây, màu “hồng nhạt” của mây, màu “đen huyền” của lũy tre làng. Có chút bình yên, tĩnh lặng nhưng cũng có chút da diết, buồn đưa ta vào một không gian nửa lạ, nửa quen, nửa quê, nửa tỉnh, với những cảm xúc nhẹ nhàng.
Phố huyện được mở rộng theo không gian của một phiên chợ tàn: “Mọi người đã về hết và ồn ào cũng không còn nữa. Trên mặt đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ chợ, lá nhãn, lá mía. ”Không còn là“ chợ cá làng chài ”, chợ chiều thưa thớt dân cư, không còn cảnh chen lấn xô đẩy làm nổi bật sự suy tàn.
Xuất hiện trên khung cảnh của một buổi chiều tàn, chợ tàn là những mảnh đời của những con người. Không phải là những người nông dân bị săn đuổi bằng thuế cao, tiền nặng, như trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nam Cao. Không phải là những ông quan Tây học, cô gái quê sống thoải mái dưới làn khói lam chiều như trong tác phẩm của Nhất Linh, Hoàng Đạo. Phận người mà Thạch Lam quan tâm là kiếp người nhỏ bé không tên, sống chết mặc bay trong xã hội đen tối.
Thạch Lam viết về họ bằng tất cả nỗi nhớ xốn xang từ “tấm chân tình” của mình. Đó là những đứa trẻ nghèo “lúi húi” nhặt những thanh tre còn sót lại trên nền chợ, mẹ con chị Tí với cái quán buôn bán ít ỏi nhưng dọn dẹp hàng đêm, và bà Thi với tiếng rao. Đang cười kinh khủng, bước vào bóng tối, đó là bác Siêu đang cùng mấy người ăn phở, gia đình với tiếng đàn rung rinh trong đêm. Họ đều là những con người nhỏ bé, ngày ngày sống trong cảnh tù túng quẩn quanh trên “ao đời phẳng lặng”. Viết về những kiếp người không tên này, Thạch Lam đã bày tỏ sự quan tâm sâu sắc đến cuộc đời của hai đứa trẻ. Giữa cái tuổi thơ ngây chưa nên, Liên và An đã phải lo toan cho cuộc sống gia đình. Hai chị em trông hàng giúp mẹ trong gian hàng nhỏ do bà lão thuê, ngăn cách bằng bức bình phong tre có dán giấy ghi. Thức ăn chỉ là một vài quả bóng sơn đen hoặc một vài thanh xà phòng. Khó khăn đã qua, nhưng điều khiến chúng tôi buồn hơn là đời sống tinh thần của hai đứa trẻ ấy dường như đang dần chững lại. Họ hàng ngày phải khép mình trong không gian tăm tối của phố thị, cầm cố tuổi thanh xuân và có thể chẳng bao giờ biết đến thế giới xa xăm ngoài kia.
Nhưng là một người “yêu và tôn trọng sự sống”, Thạch Lam sẽ không bao giờ dừng lại ở việc phản ánh hiện thực cuộc sống dù hiện thực đó có thực đến đâu. Cố gắng tìm tòi, thấu hiểu những viên ngọc quý ẩn giấu trong mỗi con người, đào sâu “vẻ đẹp không ai ngờ tới”, đó là điều mà Thạch Lam luôn mong muốn thực hiện. Người ta nói rằng Thạch Lam sinh ra để trung hòa hai khuynh hướng sáng tạo, có lẽ điều đó thể hiện rõ nhất ở vẻ đẹp tâm hồn bé Liên được nhà văn viết bằng cảm hứng lãng mạn. Giữa phố thị nghèo nàn, tồi tàn, vẫn ánh lên những xúc cảm nhạy cảm của một cô gái nhỏ biết rung động trước thiên nhiên. Liên nghe tiếng chiều rơi mà lòng tự nhủ: “Chiều ơi là chiều. Một chiều êm đềm như lời ru”, cô thấy bình yên ở đó, thấy cả lòng mình “sầu muộn trước giờ tàn. ngày”. Nghe mùi ẩm mốc bốc lên từ lầu chợ, người ta cứ ngỡ đó là “mùi của đất, của quê hương này”. Trong cuộc sống hấp hối, có mấy ai cảm nhận được từ “một đêm hè êm như nhung” làn gió thổi mát rượi tâm hồn, ai đoái hoài đến những bông hoa bàng khẽ rơi trên vai từng cánh một? Vậy mà những lời chứng của một tâm hồn trẻ thơ đã khơi gợi lên tất cả những cung bậc cảm xúc: vừa xao xuyến trước vẻ đẹp dịu dàng, vừa thoáng buồn trước sự yên bình, tĩnh lặng.
Không chỉ có một tâm hồn sắc sảo, ở Liên còn có một tấm lòng nhân ái sâu sắc, sự đồng cảm ấm áp với những kiếp người nhỏ bé xung quanh mình. Cuộc sống không khá giả hơn họ nhưng không vì thế mà Liên khép lòng thương những đứa trẻ tội nghiệp, hay bớt đi sự quan tâm của mẹ con chị Tí. Cô cũng không ngại rót đầy ly rượu cho bà Thi, không dửng dưng với gánh bún riêu của bác Siêu và gia đình bác Xẩm. Sự cảm động và bao dung dành cho những người xung quanh có phải là sự cảm thông, yêu thương mà Thạch Lam đã gián tiếp gửi gắm qua nhân vật của mình?
Trân trọng, yêu thương và không ngừng tin yêu, Thạch Lam còn nhìn thấy ở những đứa trẻ kia một khát vọng thường trực mà chúng nhen nhóm trong cuộc sống bế tắc của mình. Trong cuộc đời của mình, Thạch Lam đã từng tâm niệm: “Ở đời ai cũng khổ, người ta khổ một đằng, khổ một nẻo. Bí quyết là biết tìm niềm vui trong đau khổ”. Hai đứa trẻ đã tìm thấy niềm vui cho riêng mình trong những lần ngược dòng tâm trí, trở về quá khứ, miên man bất tận trong những tháng ngày vui vẻ ở Hà Nội nơi chúng từng nô đùa, uống những cốc nước xanh đỏ lạnh ngắt hay những lần ngước nhìn. trên bầu trời đầy sao, tìm Dải Ngân hà và chú vịt theo sau ông Thần Nông, đó là lúc họ để lòng mình lặng lại với những ước mơ Nhưng có lẽ ước muốn trọn vẹn nhất, ước mơ trọn vẹn nhất, hai đứa trẻ đã gửi gắm cả vào Không chỉ có hai chị em mà “biết bao người trong bóng tối mong chờ điều gì tươi sáng hơn cho những mảnh đời nghèo khổ của họ”, và có lẽ đoàn tàu là nguồn sáng mạnh mẽ nhất.
Chuyến tàu – hoạt động cuối cùng của một ngày – trong mắt Liên và những người dân phố huyện là động lực để họ cố gắng bám trụ với cuộc sống này. Đoàn tàu xuất hiện, bắt đầu bằng tiếng hô của bác Siêu: “Đèn đã sáng rồi”. Đoàn tàu mang đến ánh sáng rực rỡ, âm thanh rộn ràng, không tù đọng như không gian phố huyện, không leo lét như ngọn đèn cô Tí hay bếp lửa bác Siêu. Hai chị em cố thức để đợi tàu, không phải để bán một vài món hàng mà là để đắm chìm trong những cảm xúc mãnh liệt nhất về một “Hà Nội xa xôi, trong sáng, tươi vui và không ồn ào”. Hà Nội ấy từng chứa đựng bao kỉ niệm khó phai mờ của một thời con nhà còn khá giả, Hà Nội ấy trong tâm trí của hai đứa trẻ là một miền đẹp bất tận và niềm vui vô bờ bến.
Vì lẽ đó, đoàn tàu vừa như tia sáng đưa hai chị em trở về quá khứ, vừa như tia sáng soi đường cho tương lai. Nhưng nhìn ở một góc độ nào đó, chẳng phải chính đoàn tàu đã làm nổi bật cuộc sống bế tắc của những người nông dân, khi niềm vui lớn nhất trong ngày của họ chỉ là đợi tàu, không thể làm gì hơn để thoát thân? Khí ứ đọng lại cứ ôm lấy nó. Qua đây, người viết muốn nhắn gửi: Cần phải thay đổi xã hội để những con người vô danh này không phải sống một cách vô nghĩa.
Hấp dẫn chúng ta ở truyện cổ tích không chỉ bởi nội dung tư tưởng sâu sắc, tình cảm nhân đạo tha thiết mà còn ở yếu tố nghệ thuật mang đậm phong cách Thạch Lam. Không xây dựng cốt truyện hời hợt hay tình huống gay cấn, độc đáo, “Hai đứa trẻ” chỉ như một “bài thơ trữ tình đằm thắm” với những dòng tâm trạng đan xen, những tình tiết nhỏ, đủ sức gợi. những dư âm trong lòng người đọc. Tình huống mà Thạch Lam xây dựng không phải là tình huống nhận thức, tình huống hành động mà là một tình huống tâm trạng – những dòng tâm trạng nối tiếp diễn từ và trải đều trên trang giấy. Nhân vật vì thế cũng là nhân vật tâm trạng. Liên hiện lên là một cô gái với những cảm xúc mơ hồ, mong manh chứ không phải những tuyến tâm lý phức tạp như nhân vật của Nam Cao. Vì vậy, giọng đọc chỉ là tiếng thủ thỉ, thứ ngôn ngữ thiết tha, thơ mộng, mang đúng “tạng” của Thạch Lam.
Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người, vì cuộc sống, nghệ thuật chân chính là nghệ thuật biết lấy chất liệu từ cuộc sống và con người để dệt nên những trang văn sâu sắc trong tư tưởng, độc đáo trong hình thức vật chất. hiện tại. Một lần nữa Thạch Lam đã làm được điều đó qua “Hai đứa trẻ”. Thạch Lam mãi mãi là nhà văn được yêu mến và kính trọng nhất trong làng văn học hiện đại Việt Nam.
Đăng bởi: Trường ĐH KD & CN Hà Nội
Chuyên mục: Văn lớp 12, Ngữ văn 12