Mỗi người dân Việt Nam chắc hẳn sẽ đều biết đến bài thơ Nam quốc sơn hà. Nam quốc sơn hà được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam, khẳng định chủ quyền của nhà cầm quyền Đại Việt trên các vùng đất của mình. Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà chính là lời khẳng định chủ quyền của đất nước và thể hiện quyết tâm bảo vệ chủ quyền, độc lập của dân tộc, bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị đến ngày nay.
Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568
1. Tìm hiểu về bài thơ Nam Quốc Sơn Hà:
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Nam quốc sơn hà:
Bài thơ Nam quốc sơn hà hiện nay có ít nhất là 35 dị bản sách và 8 dị bản thần tích. Thư tịch đầu tiên có chép bài thơ này là sách Việt điện u linh tập, song bản Nam quốc sơn hà trong Việt điện u linh tập không phải là bản được biết đến nhiều nhất, bản ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư mới là bản được nhiều người biết nhất. Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử đầu tiên có ghi chép bài thơ này
Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà đến nay vẫn chưa thể khẳng định được tác giả của nó là ai, mặc dù vẫn có một số nguồn cho rằng Lý Thường Kiệt là người viết ra.
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Nam Quốc Sơn Hà được cho là: Vào năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt, bỗng một đêm, quân sĩ nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát có tiếng ngâm bài thơ này.
Giá trị nội dung bài thơ Nam Quốc Sơn Hà:
Nam Quốc Sơn Hà từ khi ra đời cho đến nay vẫn luôn được đánh giá là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc, khẳng định chủ quyền về lãnh thổ của đất nước và nêu cao ý chí bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù xâm lược.
Giá trị nghệ thuật bài thơ Nam Quốc Sơn Hà:
– Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, súc tích.
Thể loại thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật có các đặc điểm như sau:
+ Bài thơ có tất cả 4 câu thơ (dòng thơ), mỗi câu thơ có 7 chữ.
+ Gieo vần:
Cách 1: Gieo vần vào tiếng cuối các câu 1 – 2 – 4 (tiếng cuối câu 3 bắt buộc thanh trắc).
Cách 2: Gieo vần chéo vào tiếng cuối các câu 1 – 3 (tiếng cuối các câu 2 – 4 phải là thanh trắc) hay các câu 2 – 4 (tiếng cuối các câu 1 – 3 phải là thanh trắc).
Cách 3: Gieo vần ôm tiếng cuối câu 1 vần với tiếng cuối câu 4, tiếng cuối câu 2 vần với tiếng cuối câu 3.
Bài thơ Nam quốc sơn hà được gieo vần theo cách thứ nhất.
– Ngôn ngữ dõng dạc, giọng thơ mạnh mẽ, đanh thép, hùng hồn.
2. Nội dung bài thơ Nam Quốc Sơn Hà:
– Phiên âm:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
– Dich nghĩa:
Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm,
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
– Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc giữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
3. Ý nghĩa của bài thơ Nam quốc sơn hà:
Bài thơ Nam quốc sơn hà ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử vô cùng đặc biệt với giọng điệu hùng hồn, được ca ngợi như một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên và có ý nghĩa nhất định đối với dân tộc Việt Nam. Bài thơ Nam quốc sơn hà cũng đã khẳng định được chủ quyền dân tộc một cách rõ ràng cùng tinh thần chống giặc ngoại xâm bất khuất, kiên trung của dân tộc ta.
– Ta nhận thấy rằng, theo như các tài liệu thì bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt đó là quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt, bỗng một đêm, quân sĩ nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát có tiếng ngâm bài thơ này. Trong hoàn cảnh đó, bài thơ Nam quốc sơn hà được ví như là một đòn đánh quyết định vào tinh thần của giặc ngoại xăm, khiến chúng khiếp vía và nao núng.
Bằng cách khẳng định nền độc lập toàn vẹn của nước Đại Việt ta cũng như sự phân định rạch ròi về lãnh thổ, Nam quốc sơn hà giống như một lời cảnh cáo, tuyên chiến về những ý định gắng sức xâm phạm đến một tấc đất ta. Bài thơ Nam quốc sơn hà cũng giống như một đòn đánh tinh thần của dân tộc Đại Việt khảng khái tuyên chiến với bọn giặc ngoại xăm đang từng ngày giết chóc tàn bạo từng con người trên mảnh đất quê hương ta. Bài thơ Nam quốc sơn hà cũng là lời tuyên chiến, thách thức với những ý định sử dụng chiến tranh phi nghĩa để xâm lấn bờ cõi, để vắt kiệt nhân dân ta hòng chuộc lợi cho chúng.
– Ngoài ra bài thơ Nam quốc sơn hà là sự khẳng định chắc nịch chủ quyền lãnh thổ của nước ta một cách kiên định. Sông núi nước Nam chính là do máu, do mồ hôi của biết bao thế hệ cha ông đã ngã xuống để dựng nên. Biết bao trái tim Việt Nam đã ngừng đập để nhằm mục đích có thể giữ cho dải đất hình chữ S này vẹn nguyên một giá trị thế nên không có bất cứ thế lực nào được phép tước đi quyền tự do, quyền tự tôn dân tộc của ta. Chủ quyền Việt Nam cũng đã được biết bao trang sử ghi chép, được phân định rạch ròi trong “sách trời” thế nên việc xâm lăng của quân Tống là trái với thiên ý.
– Từ khi ra đời cho đến nay cũng đã trải qua một thời gian dài nhưng những ý nghĩa mà bài thơ Nam quốc sơn hà vẫn để lại vẫn giữ nguyên giá trị. Cho đến nay bài thơ Nam quốc sơn hà vẫn được coi là bản tuyên ngôn đầu tiên của nước Đại Việt. Bởi bài thơ Nam quốc sơn hà không chỉ mang hồn thiêng dân tộc, khẳng định ý chí làm chủ, tinh thần bảo vệ giang sơn bờ cõi của Tổ quốc từ thủa hồng hoang, mà còn là “lời hịch” đanh thép để nhằm có thể thông qua đó khẳng định với thế giới, nước Nam có chủ, người Việt Nam có quyền tự do, nước Việt Nam do người Việt Nam cai quản trên lãnh thổ của mình. Trải qua bao thăng trầm biến cố của lịch sử, “Nam quốc sơn hà” cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử, văn hóa, khắc sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam.
4. Cảm nghĩ về bài thơ Nam quốc sơn hà:
Chúng ta bất cứ một ai cũng biết đến Bản tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, được đọc trên quảng trường Ba Đình rộng lớn. Tuy nhiên, trước đó, trong lịch sử dân tộc cũng đã có xuất hiện một số văn bản khác có nội dung tuyên thệ độc lập chủ quyền của đất nước ta. Trong đó, Nam quốc sơn hà được cho là văn bản đầu tiên.
Bài thơ Nam quốc sơn hà được cho là do Lý Thường Kiệt sáng tác trong trận chiến chống quân Tống. Bài thơ Nam quốc sơn hà với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, súc tích, bài thơ đã khẳng định chủ quyền của đất nước ta, và sự quyết tâm tiêu diệt mọi kẻ thù để bảo vệ nền độc lập.
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên phận định tại thiên thư”
Tác giả đã gọi vua nước ta là “Nam đế” – một danh xưng ngang hàng với người đứng đầu nước Tống. Nhà vua đã đại diện cho cả dân tộc chúng ta, rằng ở nước Nam này đã có người dân sinh sống bao đời nay, phát triển mạnh mẽ dưới sự cai trị của triều đình. Bởi vậy, nước Nam chúng ta sẽ có chủ quyền, có nền văn minh không chút gì thua kém Trung Hoa cả. Điều đó đã được viết sẵn ở trong sách trời từ xưa rồi. Theo văn hóa trung đại lúc bấy giờ, “thiên” là một khái niệm vĩ đại và tuyệt đối, được người người kính ngưỡng, tôn thờ. Thế nên, sách trời đã định nước Nam là của người Nam, thì chẳng kẻ nào có quyền phủ nhận cả.
Ấy vậy mà, vẫn có những kẻ độc ác, thiếu hiểu biết, dám đem quân sang làm loạn, hòng phá bỏ đi những gì vốn được định sẵn ấy. Thật ngu dốt, tham lam thay.
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Hành động “xâm phạm” ấy chắc chắn sẽ không được ông trời ủng hộ, bị muôn người phỉ báng. Một khi không được trời ủng hộ thì hành động đó làm sao có thể thành công được. Trận chiến này, chưa bắt đầu đã biết trước được chiến thắng sẽ thuộc về ai. Bởi phàm những kẻ dám trái ý trời sẽ không bao giờ nhận được kết cục tốt. Thất bại ê chề và nhục nhã chính là thứ mà lũ giặc độc ác sẽ phải nhận được sau cuộc chiến.
Bài thơ Nam quốc sơn hà cùng với giọng thơ đanh thép, hào hùng, mạnh mẽ và quyết liệt, tác giả thông qua đó cũng đã khẳng định được chủ quyền của đất nước ta – điều chẳng kẻ nào có thể thay đổi được. Không những thế, ông còn thể hiện được sự quyết tâm mạnh mẽ của những chiến sĩ, quyết quên mình để bảo vệ độc lập cho dân tộc. Tinh thần yêu nước ấy, từ xưa đến nay vẫn luôn cuồn cuộn như thế.