PHẦN I – ĐẶT VẤNĐỀ
Giáo dục quốc phòng cho học sinh là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục toàn dân. Giáo Dục Quốc Phòng là môn học chính khóa nằm trong chương trình giảng dạy của các trường Trung Học Phổ Thông nhằm rèn luyện hình thành nhân cách, góp phần nâng cao ý thức quốc phòng, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Nhận rõ vị trí, vai trò của nhiệm vụ trên, những năm qua, Đảng, nhà nước ta luôn quan tâm chỉ đạo và tổ chức, triển khai thực hiện tốt công tác Giáo Dục Quốc Phòng cho học sinh.
Trong những năm qua, Sở Giáo Dục Đào Tạo đã chỉ đạo, xây dựng kế hoạch hướng dẫn các nhà trường chọn nhiều hình thức tổ chức giảng dạy, học tập môn học này.Các trường Trung học phổ thông giảng dạy 35 tiết mỗi năm học. Từ nhiều năm nay, HS được nâng cao hiểu biết về truyền thống vẻ vang của dân tộc, Quân đội Nhân dân Việt Nam và một số nội dung cơ bản về quốc phòng, rèn luyện tác phong, nếp sống tập thể có kỷ luật… Nội dung thực hành luyện tập theo đúng nội dung, thời gian quy định. Các nhà trường đều tổ chức thi, kiểm tra, hội thao đánh giá kết quả học tập.
Bên cạnh đó bước đầu còn có một số khó khăn cho học sinh đặc biệt là các em học sinh lớp 10. Các em bước vào trường THPT việc tiếp cận môn học mới còn bở ngỡ chưa quen vì đây là môn học mới mà cấp THCS chỉ được lồng ghép qua các bộ môn khác như văn, lịch sử, GDCD đặc biệt việc tiếp thu các kiến thức thực hành về quốc phòng đòi hỏi các em cần nắm rõ cả lí thuyết và các kĩ năng động tác và điều quan trọng nhất cần giúp các em hiểu được ý nghĩa thực tiễn của các động tác mặt khác trong quá rình giảng dạy các nội dung thực hành tôi nhận thấy quá trình giảng dạy cũng như thực hành động tác thì cả thầy và trò đều quá chú trọng đến kiến thức và kĩ năng động tác mà ít chú ý đến ý nghĩa thực tiễn của động tác vì vậy thông qua chương trình lớp 10 tôi mạnh dạn viết chuyên đề “Ý nghĩa một số động tác nghiêm nghĩ, quay tại chổ, tiến lùi, qua phải, qua trái về đội ngũ từng người không có súng”.
PHẦN II – NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Giáo Dục Quốc Phòng-An Ninh trong ngành giáo dục đã có những chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý các cấp đến việc tổ chức thực hiện ở từng cơ sở, nhà trường, đơn vị. Các cơ quan quản lý giáo dục đã có sự chỉ đạo kiên quyết để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục quốc phòng – an ninh trong toàn ngành. Đội ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng ở cấp trung học phổ thông đã bước đầu được hình thành và phát triển. Sở giáo dục và đào tạođã từng bước thực hiện biên chế giáo viên theo các văn bản quy định hiện hành; việc tổ chức học theo phân phối chương trình, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập cho từng học sinh đã được thực hiện ở nhiều trường trong toàn tỉnh. Giáo dục quốc phòng, an ninh cho học sinh các trường ngày càng có chất lượng, hiệu quả đã tạo ra môi trường học tập, rèn luyện cho học sinh.
Những kết quả đạt được đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục quốc phòng, an ninh.
I. ĐỘNG TÁC NGHIÊM
Ý nghĩa
Rèn luyện cho người tập có tác phong nghiêm túc, tư thế hung mạnh khẩn trương và đức tính bình tĩnh nhẫn nại, đồng thời rèn luyện ý thức tổ chức kĩ luật, thống nhất và tập trung, sẵn sang nhận mệnh lệnh. Đứng nghiêm là động tác cơ bản làm cơ sở cho mọi động tác khác.
Khẩu lệnh: “Nghiêm”
Chỉ có động lệnh “Nghiêm”, không có dự lệnh.
Cách làm động tác:
– Hai gót chân đặt sát vào nhau, nằm trên một đường thẳng ngang, hai bàn chân mở rộng 450, hai đầu gối thẳng, sức nặng toàn thân dồn đều vào hai chân.
– Ngực nở bụng thót lại, hai vai thăng bằng.
– Hai tay buông thẳng, năm ngón tay khép lại và cong tự nhiên, đầu ngón tay cái đặt vào giữa của đốt thứ nhất và đốt thứ hai của ngón tay trỏ, đầu ngón tay giữa đặt đúng theo đường chỉ quần. Đầu ngay, miệng ngậm, cằm hơi thu về sau, mắt nhìn thẳng .
Chú ý: Khi làm động tác nghiêm, tay không cầm vào đường chỉ quần, mắt không nhìn xuống dưới chân…
II. ĐỘNG TÁC NGHỈ
Ý nghĩa: Để quân nhân khi đứng trong hàng đỡ mỏi mà vẫn giữ được tư thế, hàng ngũ nghiêm chỉnh và tập trung sức chú ý.
Khẩu lệnh: “Nghỉ”
Chỉ có động lệnh “Nghỉ”, không có dự lệnh.
Cách làm động tác:
– Đầu gối trái hơi chùng, sức nặng toàn thân dồn vào chân phải.
– Thân trên và hai tay vẫn giữ như khi đứng nghiêm.
– Khi mỏi thì về thư thế đứng nghiêm rồi đổi chân.
Chú ý: Khi làm động tác nghỉ, thân trên và tay vẫn giữ như như khi đứng nghiêm.
III. ĐỘNG TÁC QUAY TẠI CHỖ
Ý nghĩa: Để đổi hướng được nhanh chóng, chính xác, giữ được vị trí đứng, duy trì được trật tự đội hình.
1. Động tác quay bên phải
a. Khẩu lệnh: “Bên phải…. Quay”
Có dự lệnh “Bên phải”, động lệnh là “Quay”
b. Cách làm động tác: Khi dứt động lệnh “Quay” ta thực hiện 2 cử động:
+ Cử động 1: Thân trên vẫn giữ ngay ngắn, hai đầu gối thẳng tự nhiên, lấy gót bàn chân phải và mũi bàn chân trái làm trụ phối hợp với sức xoay của người quay toàn thân sang phải 900, sức nặng toàn thân dồn vào chân phải.
+ Cử động 2: Đưa chân trái lên thành tư thế đứng nghiêm.
c.Chú ý: Khi quay người không chao đảo…
2. Động tác quay bên trái
a. Khẩu lệnh: “Bên trái…. Quay”
Có dự lệnh “Bên trái”, động lệnh là “Quay”
b. Cách làm động tác: Khi dứt động lệnh “Quay” ta thực hiện 2 cử động:
+ Cử động 1: Thân trên vẫn giữ ngay ngắn, hai đầu gối thẳng tự nhiên, lấy gót bàn chân trái và mũi bàn chân phải làm trụ phối hợp với sức xoay của người quay toàn thân sang trái 900, sức nặng toàn thân dồn vào chân trái.
+ Cử động 2: Đưa chân phải lên thành tư thế đứng nghiêm.
c.Chú ý: Khi quay người không chao đảo…
3. Động tác quay nửa bên phải
– Khẩu lệnh: “Nửa bên phải….Quay”.
– Nghe dứt động lệnh “Quay”, thực hiện hai cử động như quay bên phải, chỉ khác là quay sang phải một góc 450.
4. Động tác quay nửa bên trái
– Khẩu lệnh: “Nửa bên trái….Quay”.
– Nghe dứt động lệnh “Quay”, thực hiện hai cử động như quay bên trái, chỉ khác là quay sang trái một góc 450.
5. Động tác đằng sau quay
a. Khẩu lệnh: “Đằng sau … Quay”.
Có dự lệnh “Đằng sau”, động lệnh là “Quay”.
b. Cách làm động tác: Khi nghe dứt động lệnh “Quay”, thực hiện 2 cử động:
+ Cử động 1: Thân trên vẫn giữ ngay ngắn, hai dâu gối thẳng tự nhiên, lấy gót chân trái và mũi chân phải làm trụ phối hợp với sức xoay của người quay toàn thân sang trái về sau 1800, khi xoay sức nặng toàn thân dồn vào chân trái.
+ Cử động 2: Đưa chân phải lên thành tư thế đứng nghiêm.
c. Chú ý: Khi quay tư thế phải vững vàng, hai tay không vung khi quay…
I. ĐỘNG TÁC TIẾN, LÙI, QUA TRÁI, QUA PHẢI
Ý nghĩa: Để di chuyển đội hình ở cự ly ngắn một cách thống nhất, trật tự, thể hiện được tính trang nghiêm, hùng mạnh của quân đội.
1. Động tác tiến, lùi
a. Khẩu lệnh:“ Tiến ( lùi) X bước…Bước”
Có dự lệnh: “Tiến (lùi) X bước” và động lệnh là “Bước”.
b. Cách làm động tác: Khi dứt động lệnh bước:
* Khi tiến:
– Chân trái bước lên trước, chân phải bước tiếp theo sau (Khoảng cách vẫn như đi đều).
– Thân trên và tay vẫn giữ như khi đứng nghiêm.
– Khi tiến đủ số bước thì dừng lại, đưa chân sau lên cùng với chân trước thành tư thế đứng nghiêm.
Chú ý: Khi tiến nhiều hơn 5 bước phải làm động tác chạy đều.
* Khi lùi
– Chân trái lùi trước, chân phải lùi bước tiếp theo sau (Khoảng cách vẫn như đi đều).
– Thân trên và tay vẫn giữ như khi đứng nghiêm.
– Khi lùi đủ số bước thì dừng lại, đưa chân trước về cùng với chân sau thành tư thế đứng nghiêm.
c. Chú ý: Khi lùi nhiều hơn 5 bước phải làm động tác quay đằng sau và chạy đều.
2. Động tác qua phải, qua trái
a. Khẩu lệnh:“Qua phải (Trái) X bước… Bước”.
b. Cách làm động tác:
Nghe dứt động lệnh “Bước”, chân phải (trái) bước sang phải (trái) mỗi bước rộng bằng vai tính từ mép ngoài của hai bàn chân), sau đó chân trái (phải) đưa về thành tư thế đứng nghiêm rồi tiếp tục bước, bước đủ số bước quy định thì đứng lại về thành tư thế đứng nghiêm.
c. Chú ý:
– Khi bước người phải ngay ngắn
– Không nhìn xuống để bước.
2. Cơ sở thực tiễn:
Qua nhiều năm giảng dạy nội dung đội ngũ từng người không có súng cho học sinh, mặc dù đã đổi mới phương pháp dạy học nhưng giáo viên vẫn nặng nề về tâm lý giáo dục, kiến thức và kỹ năng động tác, ít chú ý đến các ý nghĩa của động tác điều này đã dẫn đến tình trạng mơ hồ trong học tập thiếu tính áp dụng thực tiễn, thiếu ý nghĩa thực tiễn. Do một số nguyên nhân sau.
– Nguyên nhân khách quan.
Đây là nội dung thực hành nên sau khi ra sân trường bãi tập tư tưởng của giáo viên và học sinh luôn hướng tới thực hành.
Thời gian cho thực hành các nội dung còn hạn chế giáo viên nghĩ không đủ thời gian để phổ biến phân tích kĩ các khâu, các nội dung.
Nội dung khá nhiều nên khi GV phổ biến các em vẫn không nhớ hết.
– Nguyên nhân chủ quan:
+ Tư tưởng xem nhẹ bộ môn chính, phụ.
+ Khi đi học thực hành các em không mang theo sách vỡ.
+ Khi học ngoài trời nên sức chú ý của các em kém do không quen.
Trước những thực trạng đó theo tôi nghĩ chúng ta cần thay đổi cách nghĩ, cách tư duy về môn học kể cả với học sinh hay suy nghĩ của giáo viên.
3. Thực trạng.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy điều làm tôi cũng như nhiều đồng nghiệp của tôi trăn trở là làm thế nào để học sinh hăng say học tập môn học, nắm bắt nội dung nhanh sớm thành thạo kĩ thuật động tác, hiểu được ý nghĩa các nội dung động tác, qua đó giúp các em tích cực hơn trong học tập, thầy giáo hăng say hơn trong giảng dạy.
4. giải pháp.
a. Với giáo viên. Cần tích cực hơn trong công tác nghiên cứu và giảng dạy, thường xuyên tích lũy chuyên môn, tích lũy kinh nghiệm giảng dạy.
Trong quá trình giảng dạy cần chú ý nêu ý nghĩa động tác, quá trình vận dụng trong thực tiễn.
Trước những buổi thực hành giáo viên cần căn dặn các em chuẩn bị trước các nội dung cho buổi học hôm đó
b. Với học sinh.
Tích cực học tập tránh coi thường bộ môn.
Cần tập trung chú ý học cả lý thuyết lẫn thực hành.
Quá trình học thưc hành cần nắm vững cả lí thuyết.
Những nội dung chưa nắm chắc trong quá trình học thực hành vẫn cần mang theo sách giáo khoa.
Trước những buổi học thực hành các em cần có sự chuẩn bị kỉ các nội dung.
PHẦN III – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài viết, những vấn đề mà tôi đưa ra mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu, với hy vọng sẽ nhận được những đóng góp thiết thực và quý báu của các nhà quản lý, của đội ngũ những người làm công tác giáo dục quốc phòng, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học môn giáo dục quốc phòng ở các trường THPT.
Từ kết quả nghiên cứu của chuyên đề, tôi có một số kiến nghị như sau:
– Với giáo viên và học sinh cần nghiên cứu kỹ hơn bài học cũng như kỹ thuật các động tác, cần nắm rõ ý nghĩa thực tiễn của các động tác đó. Không ngừng tích lũy kiến thức môn học, tăng độ phong phú, đa dạng trong quá trình dạy học và huấn luyện kỹ thuật các động tác cũng như tư thế vận động của môn học.
– Về phía nhà trường cần có sự đầu tư tài liệu tham khảo, về nội dung giáo dục quốc phòng cho giáo viên và học sinh.
– Xây dựng nhà tập, sân bãi huấn luyện để thuận tiện cho việc học tập khi thời tiết không thuận lợi.
Xin chân thành cảm ơn và nhận được nhiều sự đóng góp./.
Thạch Hà, ngày 2 tháng 4 năm 2019
Người thực hiện
Nguyễn Tất Quân